I. Một số vấn đề chung về vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong công tác thanh tra
1. Vai trò của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong công tác thanh tra
Quản lý nhà nước là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước. Nói cách khác, quản lý nhà nước là sự tác động bằng pháp luật của các chủ thể mang quyền lực nhà nước tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước. Như vậy, tất cả các cơ quan nhà nước đều làm chức năng quản lý nhà nước.
Thanh tra, kiểm tra được xác định là một trong những chức năng của quản lý nhà nước và là phương thức đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước đạt kết quả cao. Hoạt động quản lý nhà nước bao gồm ba khâu chủ yếu là ban hành chínhtra, kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật đó. Nhà nước thông qua các sách, pháp luật; tổ chức thực hiện chính sách pháp luật đã được ban hành và thanh cơ quan của bộ máy Nhà nước để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, trong đó thanh tra, kiểm tra được coi là chức năng quan trọng và thiết yếu để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước. Chức năng thanh tra, kiểm tra được trao cho tất cả các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, đặc biệt là hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước. Do đó, thanh tra cũng đồng thời là một trong những nhiệm vụ quan trọng của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước với tư cách là người đứng đầu các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương.
Theo quy định của Luật thanh tra, các cơ quan thanh tra nhà nước nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và được thiết lập thống nhất từ trung ương đến địa phương. Các cơ quan thanh tra nhà nước được thành lập theo cấp hành chính và theo ngành lĩnh vực. Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính bao gồm Thanh tra Chính phủ; thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Các cơ quan thanh tra theo ngành lĩnh vực gồm thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ và thanh tra sở.
Luật thanh tra quy định rõ vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ chỉ đạo phối hợp giữa các cơ quan thanh tra nhà nước. Theo đó, Thanh tra chính phủ là cơ quan của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Chính phủ… Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ, là cơ quan của bộ, cơ quan ngang bộ có nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật nhiệm vụ của cơ quan thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ, cơ quan ngang bộ; thanh tra việc thực hiện pháp luật chuyên ngành của cơ quan, tổ chức cá nhân trong phạm vi quản lý nhà nước theo ngành lĩnh vực do bộ phụ trách; chịu sự hướng dẫn công tác tổ chức nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ và có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành đối với thanh tra sở. Thanh tra tỉnh thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, của cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp.
Như vậy, theo các quy định pháp luật về thanh tra, ở các mức độ khác nhau, các cơ quan thanh tra vừa chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, vừa chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức và nghiệp vụ của thanh tra cấp trên. Vị thế giữa Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp với thanh tra cùng cấp là quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, quan hệ giữa người điều hành với người chấp hành mệnh lệnh hành chính. Một đặc thù của của quản lý hành chính là “mệnh lệnh đơn phương”, như vậy có nghĩa mọi hoạt động của cơ quan thanh tra nhà nước phải chịu sự chịu sự chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Vị thế pháp lý này về hình thức thể hiện tính đồng nhất của thứ bậc quản lý, điều hành. Nhưng về bản chất, hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật và chỉ được thực hiện khi có quyết định thanh tra là nội dung, là nguyên tắc rất quan trọng trong hoạt động thanh tra. Nếu mệnh lệnh hành chính của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là đúng đắn thì sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, còn nếu như mệnh lệnh sai thì vấn đề thực thi mệnh lệnh của cơ quan thanh tra là hết sức nan giải. Vì vậy, có thể thấy rằng vai trò của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong công tác thanh tra là rất quan trọng, nó tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra.
2. Nội dung vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước trong công tác thanh tra theo quy định của pháp luật hiện hành
2.1. Kiện toàn tổ chức, bổ nhiệm các chức danh thanh tra; bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất làm công tác thanh tra
Hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm chỉ đạo của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước. Thực tiễn cho thấy ở nơi nào thủ trưởng cơ quan quản lý quan tâm đầy đủ tới thanh tra thì ở đó công tác thanh tra đạt chất lượng, hiệu quả, phục vụ đắc lực cho công tác quản lý và ngược lại. Sự quan tâm đó được thể hiện trên tất cả các mặt của công tác thanh tra, nhưng công tác tổ chức, bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất làm công tác thanh tra có ý nghĩa hết sức quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra.
Theo quy định của Luật thanh tra, Nghị định 100/2007/NĐ-CP ngày 13/6/2007 của Chính phủ về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra thì thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm Chánh thanh tra, các Phó chánh thanh tra, các ngạch thanh tra viên. Vai trò, trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước được thể hiện trong chỉ đạo quy hoạch cán bộ lãnh đạo (Chánh thanh tra, các phó Chánh thanh tra); trong việc xắp sếp, luân chuyển những cán bộ có năng lực, phẩm chất làm công tác thanh tra; trong việc bổ nhiệm các chức danh thanh tra (Thanh tra viên, Thanh tra viên chính, Thanh tra viên cao cấp); trong việc ra quyết định tuyển dụng cán bộ, công chức làm công tác thanh tra, phân bổ chỉ tiêu, biên chế cho các cơ quan thanh tra; thống nhất với Thủ trưởng các cơ quan thanh tra cấp trên trong việc bổ nhiệm Chánh thanh tra.
2.2. Thường xuyên chỉ đạo hoạt động thanh tra
– Lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thanh tra, chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên về công tác thanh tra trong phạm vi quản lý của mình.
Thanh tra là một khâu của chu trình quản lý, thanh tra phục vụ trực tiếp và thiết thực cho hoạt động quản lý. Do đó, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ở mỗi cấp, mỗi ngành phải chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc tổ chức và chỉ đạo hoạt động thanh tra nhằm hoàn thành chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước được thể hiện trong việc chỉ đạo, kiểm tra Đoàn thanh tra trong quá trình thực hiện hoạt động thanh tra. Theo quy định của Luật thanh tra, trong những trường hợp cần thiết, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là người ra quyết định thanh tra, Người ra quyết định thanh tra có nhiệm vụ, quyền hạn chỉ đạo, kiểm tra Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung, thời hạn ghi trong quyết định thanh tra; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của Đoàn thanh tra; yêu cầu Trưởng đoàn và các thành viên khác trong Đoàn thanh tra báo cáo để làm rõ hơn những vấn đề cần thiết phục vụ cho việc ra kết luận thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng Đoàn thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra. Đây là mối quan hệ chỉ đạo, điều hành của cấp trên đối với cấp dưới, có tính hành chính, đơn phương, bắt buộc thi hành. Nếu như Trưởng đoàn thanh tra luôn gắn với cuộc thanh tra cụ thể, với mục đích, yêu cầu, nội dung xác định thì Người ra quyết định là người đặt ra chính mục đích, yêu cầu, nội dung đó. Về nguyên tắc, trong phạm vi chế độ, tiêu chuẩn, định mức cho phép, Người ra quyết định thanh tra phải bảo đảm các điều kiện về con người, về phương tiện, tài chính, thời gian, cũng như về các thủ tục hành chính để Đoàn thanh tra hoạt động có hiệu quả; xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thanh tra, như có khó khăn trong thu thập thông tin, tài liệu; trong việc tiếp xúc, làm việc với đối tượng thanh tra mà Đoàn thanh tra không tự khắc phục được; hoặc như cần mở rộng nội dung, đối tượng thanh tra, kéo dài thời gian thanh tra,…
– Căn cứ yêu cầu công tác quản lý của Bộ, ngành địa phương và chương trình công tác của cơ quan thanh tra cấp trên, chỉ đạo việc xây dựng và phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra của cơ quan thanh tra thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Trong hoạt động thanh tra việc xây dựng chương trình công tác thanh tra cho từng năm, quý, tháng là yêu cầu cần thiết, không thể thiếu đối với các cơ quan thanh tra. Theo quy định của pháp luật, chương trình công tác thanh tra sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ là nhiệm vụ có tính “Pháp lệnh” giao cho cơ quan thanh tra. Những công việc mà chương trình công tác thanh tra đề ra là căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan thanh tra tiến hành các hoạt động thanh tra. Trên thực tế, để xây dựng chương trình công tác thanh tra, ngoài việc căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ công tác do cơ quan thanh tra cấp trên hướng dẫn thì còn phải căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ, bộ ngành hoặc địa phương. Vai trò của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước được thể hiện trong việc chỉ đạo các cơ quan Thanh tra nhà nước thông qua công tác quản lý nhà nước, nắm tình hình thường xuyên chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, phối hợp với các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra để tránh chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động.
– Định kỳ nghe cơ quan thanh tra thuộc quyền quản lý báo cáo và báo cáo định kỳ với cơ quan quản lý nhà nước cấp trên về công tác thanh tra. Giải quyết kịp thời những vấn đề khó khăn, vướng mắc về công tác thanh tra; xử lý việc chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra thuộc phạm vi quản lý của mình.
Thông thường kế hoạch công tác hàng năm của mỗi tổ chức thanh tra căn cứ trên cơ sở hướng dẫn xây dựng kế hoạch của Thanh tra Chính phủ, của Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, ngoài ra còn có một số cuộc thanh tra đột xuất. Trong thời gian qua, để đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập, riêng đối với hoạt động thanh tra, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị định quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra một số bộ, ngành như: tài chính, công an, khoa học và kông nghệ, thuỷ sản… nhưng do chưa có sự thống nhất trong về thời gian trong chỉ đạo giao và duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra dẫn đến chồng chéo và trùng lắp trong hoạt động thanh tra, nhất là giữa hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm thống nhất chỉ đạo trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra hàng năm về thời gian cũng như các lĩnh vực cần thanh tra hàng năm. Thẩm quyền xử lý chồng chéo, trùng lắp trong hoạt động thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước……
2.3. Xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra
Điều 44 Luật thanh tra quy định: Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp có trách nhiệm xem xét kết luận thanh tra; xử lý đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật.
Các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra là kết quả của hoạt động thanh tra, trên cơ sở những kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để bảo đảm thực hiện các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra. Mục đích của hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục… do đó, về nguyên tắc các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra phục vụ trước hết và chủ yếu công tác quản lý nhà nước của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương. Trách nhiệm này thể hiện trong việc trực tiếp xử lý đối với các cơ quan, tổ chức cá nhân thuộc quyền quản lý hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật. Dù với trách nhiệm trực tiếp hay chỉ là việc kiến nghị thì việc xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra là một khâu, một công đoạn không thể thiếu của hoạt động thanh tra, các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra không thể phát huy hiệu quả, hiệu lực nếu nó không được tổ chức thực hiện trên thực tế.
II. Tình hình thực hiện trách nhiệm, vai trò của Thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước trong công tác thanh tra thời gian qua
1. Những kết quả đạt được
1.1.Về kiện toàn tổ chức, bổ nhiệm các chức danh thanh tra; bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất làm công tác thanh tra
Việc kiện toàn tổ chức, bổ nhiệm các chức danh thanh tra: về nguyên tắc thẩm quyền này được giao cho Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước là phù hợp với xu thế phân cấp trong quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa phương. Quá trình phân cấp này sẽ giúp cho các bộ, ngành, địa phương chủ động trong việc bố trí, đào tạo và quy hoạch cán bộ, kiện toàn tổ chức phù hợp với nhiệm vụ được giao. Trên thực tế, các bộ, ngành, địa phương đã chủ động trong việc xắp xếp, bố trí những cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất làm công tác thanh tra; bổ nhiệm kịp thời những người có đủ điều kiện vào các chức danh thanh tra; thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, thanh tra viên. Điều này được thể hiện rõ nét là rất nhiều các đồng chí Chánh thanh tra cấp tỉnh, cấp huyện là thường vụ Tỉnh uỷ, huyện uỷ, có vai trò rất quan trọng trong tổ chức bộ máy nhà nước ở địa phương; chất lượng, hiệu quả của hoạt động thanh tra ngày càng được nâng cao; các cơ quan thanh tra nhà nước được kiện toàn, không còn tình trạng thiếu cán bộ làm công tác quản lý, lãnh đạo. Thực hiện Nghị định 100/NĐ-CP về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra, các bộ, ngành, địa phương đã chủ động trong việc đào tạo, quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ; chủ động trong việc phát triển nguồn nhân lực làm công tác thanh tra, ngành đã thu hút được nhiều những cán bộ có đủ năng lực, trình độ để thực hiện những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi trình độ chuyên môn sâu.
1.2. Thường xuyên chỉ đạo hoạt động thanh tra
– Lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thanh tra, chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên về công tác thanh tra trong phạm vi quản lý của mình.
Để đáp ứng yêu cầu công tác quản lý, quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, các cơ quan thanh tra thường được giao thực hiên các cuộc thanh tra đột xuất ngoài chương trình kế hoạch. Thực tế cho thấy, hàng năm việc thanh tra đột xuất ngoài kế hoạch chiếm tỷ lệ không lớn so với chương trình công tác được giao. Song phần lớn các cuộc thanh tra này đều tập trung vào những vấn đề quan trọng, phức tạp, cần phải tiến hành thanh tra khẩn trương để phục vụ kịp thời sự chỉ đạo, điều hành của cấp uỷ Đảng và chính quyền cùng cấp. Nhìn chung, trong quá trình tổ chức thực hiện các cuộc thanh tra đột xuất, các cơ quan thanh tra đã nhận được sự chỉ đạo kịp thời của Thủ trưởng cơ quan quản lý lý nhà nước cùng cấp cũng như sự hướng dẫn, phối hợp của các cơ quan thanh tra cấp trên. Hàng năm, thanh tra các bộ ngành, thanh tra các tỉnh ngoài việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra theo chương trình, kế hoạch đã giành ra tới 20% thời gian và lực lượng để tổ chức thực hiện các cuộc thanh tra đột xuất được giao. Ngoài ra, đối với những cuộc thanh tra đột xuất mà đối tượng thanh tra liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành hoặc địa phương, Thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước đã kịp thời chỉ đạo các cơ quan, ban ngành phối hợp thực hiện, huy động nhiều cán bộ thanh tra ở các cơ quan thanh tra nhà nước tham gia các Đoàn thanh tra; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, xử lý kịp thời những vấn đề phát sinh, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiến hành thanh tra. Nội dung chỉ đạo, phối hợp thể hiện ở việc thống nhất nội dung, chương trình, kế hoạch thanh tra; thời gian, thời điểm thanh tra, việc kết luận thanh tra và xử lý kết quả thanh tra.
Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cũng thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc việc thực hiện các cuộc thanh tra theo chương trình, kế hoạch nhằm phục vụ công tác quản lý nhà nước ở bộ, ngành, địa phương. Đã có rất nhiều Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là người ra quyết định thanh tra, trực tiếp chỉ đạo Đoàn thanh tra. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, từ đầu năm đến nay, “các tổ chức Thanh tra bộ, ngành, địa phương đã tiến hành 3.589 cuộc thanh tra, tập trung chủ yếu vào công tác thu chi ngân sách, tài chính doanh nghiệp, quản lý đầu tư và xây dựng, quản lý, sử dụng đất đai. Kết thúc 1.532 cuộc thanh tra đã phát hiện các sai phạm về kinh tế trị giá 1.476 tỷ đồng, 513 ha đất; kiến nghị thu hồi 299,6 tỷ đồng, 109,6 ha đất, bước đầu thu hồi được 73 tỷ đồng. Qua thanh tra các tổ chức thanh tra đã kiến nghị xử lý kỷ luật hành chính 415 người và chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ 16 vụ với 24 đối tượng, đồng thời đề xuất nhiều kiến nghị chấn chỉnh công tác quản lý nhà nước thuộc phạm vi của bộ, ngành, địa phương (Báo cáo công tác thanh tra 6 tháng đầu năm 2007).
Kết quả trên đây thể hiện những nỗ lực rất lớn của các cơ quan thanh tra nhà nước, trong đó vai trò lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thanh tra của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là rất quan trọng, góp phần vào việc hoàn thành các mục tiêu, chương trình, kế hoạch thanh tra đã đề ra.
– Căn cứ yêu cầu công tác quản lý của Bộ, ngành địa phương và chương trình công tác của cơ quan thanh tra cấp trên, chỉ đạo việc xây dựng và phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra của cơ quan thanh tra thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Có thể nói, thời gian qua các cơ quan thanh tra nhà nước đã có nhiều cố gắng trong công tác chỉ đạo, phối hợp xây dựng chương trình công tác thanh tra. Chương trình công tác thanh tra của Thanh tra Chính phủ nói riêng, của các cơ quan thanh tra nhà nước nói chung đã bám sát yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Đảng, nhà nước, địa phương và bộ ngành; tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm phục vụ có hiệu quả công tác quản lý. Việc chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, của Thanh tra Chính phủ, việc phối hợp của thanh tra các tỉnh, thành phố, các bộ ngành trong quá trình xây dựng chương trình công tác thanh tra đã phát huy sức mạnh của hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước. Để chỉ đạo, phối hợp xây dựng chương trình công tác thanh tra đạt kết quả, vấn đề đặt ra đối với Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là phải định hướng được nhiệm vụ thanh tra phù hợp với yêu cầu công tác quản lý; định hướng được chương trình, công tác thanh tra của địa phương, bộ, ngành, có như vậy hoạt động thanh tra mới phục vụ có hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
1.3. Xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra
Nhìn chung, các kết luận sau thanh tra đã được các cấp, các ngành phối hợp thực hiện tương đối tốt, thu về cho nhà nước nhiều tỷ đồng, nhiều kiến nghị về sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách đã được các cấp có thẩm quyền nghiêm túc triển khai, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Các cơ quan thanh tra đã chủ động phối hợp, đôn đốc các cơ quan có thẩm quyền trong việc thu hồi tiền, tài sản cho nhà nước; ……
2. Những hạn chế còn tồn tại
2.1.Về kiện toàn tổ chức, bổ nhiệm các chức danh thanh tra; bố trí cán bộ có năng lực, phẩm chất làm công tác thanh tra
Cơ chế bổ nhiệm các chức danh thanh tra hiện nay dẫn đến thực trạng là đội ngũ cán bộ làm công tác lãnh đạo thường xuyên có sự thay đổi, không ổn định, sự thay đổi này thường diễn ra sau khi có sự thay đổi ở vị trí Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Luật thanh tra quy định Chánh thanh tra tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng thanh tra, tuy nhiên trên thực tế, sự “thống nhất” với Tổng thanh tra trong việc bổ nhiệm Chánh thanh tra chỉ mang tính hình thức vì hiện nay ngành Thanh tra chưa có quy định về tiêu chuẩn, điều kiện bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ khi được bổ nhiệm giữ vị trí lãnh đạo các cơ quan thanh tra, do đó sự trao đổi, thống nhất trong việc bổ nhiệm Chánh thanh tra thường được sự chấp thuận của cơ quan thanh tra cấp trên. Ở nhiều nơi, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước bổ nhiệm hoặc điều chuyển những cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo trong cơ quan thanh tra trong khi họ chưa từng làm công tác thanh tra, chưa có kinh nghiệm hoặc chưa được qua đào tạo nghiệp vụ thanh tra, trong khi đó rất nhiều cán bộ đã được qua đào tạo, có chuyên môn, kinh nghiệm thanh tra không được bổ nhiệm hoặc bị điều chuyển làm công tác khác.
Việc tuyển dụng, bố trí cán bộ làm công tác thanh tra cũng còn nhiều bất cập, hạn chế. Ở các địa phương, các cơ quan thanh tra không được tổ chức thi tuyển công chức mà việc tuyển dụng này được tổ chức cùng với các cơ quan, ban ngành của tỉnh. Thông thường, Sở Nội vụ là cơ quan đứng ra tổ chức thi tuyển công chức cho địa phương, sau đó bố trí cán bộ cho các cơ quan, ban ngành có nhu cầu, dẫn đến tình trạng là các cơ quan, ban ngành không nhận được những cán bộ được đào tạo theo các chuyên ngành mà cơ quan đang cần. Rất nhiều cơ quan thanh tra buộc phải nhận những cán bộ được đào tạo ở các chuyên ngành không thực sự cần thiết đối với công tác thanh tra như nông nghiệp, y tế, dược, địa chất… trong khi đó nhu cầu về cán bộ có trình độ chuyên môn ở lĩnh ngành, lĩnh vực thực sự cần thiết lại không được đáp ứng.
2.2. Về chỉ đạo hoạt động thanh tra
– Trong quá trình tiến hành hoạt động thanh tra, việc thực hiện quyền ra quyết định thanh tra của Chánh thanh tra hiện nay rất khó thực hiện, đặc biệt là ở cấp huyện. Hiện nay, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện thường ra quyết định thanh tra; nếu Chánh thanh tra huyện ra quyết định thì việc tổ chức triển khai, trưng tập cán bộ của các ngành khác, thực hiện kết luận thanh tra là rất khó thực hiện trên thực tế vì lực lượng mỏng, kinh phí hạn hẹp, phụ thuộc nhiều vào cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Tuy nhiên, nếu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện ra quyết định thanh tra thì sẽ dẫn đến tình trạng là đoàn thanh tra gặp rất nhiều khó khăn trong việc chỉ đạo điều hành vì có rất nhiều quyền của Người ra quyết định thanh tra được sử dụng trong quá trình tiến hành thanh tra: kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với cán bộ, công chức cố ý cản trở việc thanh tra hoặc không thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra; ra quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị ngưòi có thẩm quyền xử lý; kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quyết định xử lý về thanh tra; chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra khi phát hiện có dấu hiệu của tội phạm…, trong khi đó Chủ tịch Uỷ ban nhân huyện không phải khi nào cũng dành sự quan tâm chỉ đạo điều hành hoạt động của đoàn thanh tra.
– Về hoạt động thanh tra hành chính, trước đây Trưởng đoàn thanh tra được quyền ra kết luận thanh tra, nay việc ra kết luận thanh tra thuộc quyền của người ra quyết định thanh tra (thủ trưởng cơ quan Thanh tra hoặc thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước). Luật quy định như vậy nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kết luận thanh tra, một văn bản mấu chốt trong hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, qua thực tế cho thấy quy định trên rất khó thực hiện, đối với những cuộc thanh tra có tính chất phức tạp, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành thì Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là người ra quyết định thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra, họ không trực tiếp đi thanh tra, chỉ nghe báo cáo rồi kết luận nên nhiều trường hợp không nắm hết vấn đề cụ thể, không sát thực tiễn, lúng túng, phải có thời gian tìm hiểu thêm sau khi nghe báo cáo kết quả thanh tra, dẫn đến có những cuộc thanh tra đã kết thúc, đã có báo cáo kết quả thanh tra nhưng việc ra kết luận thanh tra chậm, vi phạm thời hạn do Luật quy định. Nhưng nếu trao thẩm quyền ra kết luận thanh tra cho trưởng Đoàn thanh tra thì vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước, thủ trưởng cơ quan thanh tra rất khó xác định, bởi vì nếu kết luận thanh tra sai, không khách quan thì trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, thủ trưởng cơ quan thanh tra vẫn được đặt ra, đây là trách nhiệm “chính trị” của người đứng đầu.
– Về chỉ đạo hoạt động thanh tra chuyên ngành: hiện nay chức năng thanh tra hành chính của các cơ quan thanh tra chuyên ngành hầu như không thực hiện trên thực tế. Điều này xuất phát từ việc Luật thanh tra quy định Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp là người có thẩm quyền phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra, do đó trên thực tế Bộ trưởng, Giám đốc các sở, ban ngành khó có thể phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình, dẫn đến tình trạng bỏ trống trong hoạt động thanh tra hiện nay.
– Về chỉ đạo thanh tra đột xuất: Nghị định 41/2005/NĐ-CP quy định Tổng thanh tra có quyền ra quyết định thanh tra đột xuất, trong trường hợp cần thiết, Chánh thanh tra các cấp, các ngành trình Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp quyết định việc thanh tra đột xuất. Trên thực tế, việc đề xuất với Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra đột xuất gặp rất nhiều khó khăn, nhiều đề xuất của các cơ quan thanh tra không được sự đồng ý hoặc việc ra quyết định thanh tra không kịp thời, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động thanh tra.
– Về chỉ đạo việc xây dựng và phê duyệt chương trình kế hoạch thanh tra: các cơ quan thanh tra nhà nước hiện nay gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, vai trò của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra không rõ nét. Các cơ quan thanh tra thường chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch dựa trên phương hướng, nhiệm vụ của ngành, định hướng của Thanh tra Chính phủ, trong khi đó Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước lại là người phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra dựa trên nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của ngành, địa phương mình, yêu cầu của công tác quản lý nhà nước nên dẫn đến sự không thống nhất trong chỉ đạo, định hướng công tác thanh tra.
2.3. Về xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra
Việc xử lý các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra còn nhiều hạn chế, chưa được đôn đốc, chỉ đạo kịp thời, đặc biệt là những kết luận, kiến nghị về xử lý cán bộ, kiến nghị về sửa đổi cơ chế, chính sách. Những tồn tại này có nguyên nhân khách quan, đó là nhiều kết luận, kiến nghị thanh tra liên quan đến những vấn đề cơ chế, chính sách ở tầm vĩ mô, cần có sự nghiên cứu, trao đổi của nhiều cơ quan chức năng, trong nhiều trường hợp các văn bản pháp luật làm căn cứ cho việc xử lý còn thiếu hoặc chưa rõ ràng. Tuy nhiên, trên thực tế Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước chưa thể hiện đúng vai trò, trách nhiệm của mình trong việc xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra. Nhiều kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra về việc xử lý cán bộ thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước không được thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc; chậm chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp sửa đổi cơ chế, chính sách hoặc không kịp thời kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền xử lý dẫn đến làm giảm hiệu lực, hiệu quả của kết luận thanh tra.
3. Nguyên nhân
– Về kiện toàn tổ chức, bổ nhiệm các chức danh thanh tra. Ngành thanh tra hiện nay chưa có quy định về tiêu chuẩn đối với chức danh lãnh đạo các cơ quan thanh tra, ví dụ như muốn được bổ nhiệm Chánh thanh tra, cán bộ phải được đào tạo về nghiệp vụ, đào tạo cán bộ quản lý do Thanh tra Chính phủ tổ chức và cấp chứng chỉ hoặc việc bổ nhiệm được thực hiện đối với cán bộ thuộc diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo trong cơ quan thanh tra. Các quy định trên sẽ bảo đảm sự ổn định nhân sự, hạn chế việc bổ nhiệm những cán bộ không đủ năng lực, trình độ hoặc theo ý chí chủ quan của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước.
Để kiện toàn tổ chức thì việc định lượng các tiêu chuẩn ngạch, bậc là rất cần thiết, giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của cơ quan thanh tra. Tuy nhiên, nhiệm vụ này trên thực tế chưa được các cơ quan thanh tra thực hiện, mỗi cơ quan thanh tra cần bao nhiêu cán bộ là thanh tra viên, thanh tra viên chính và thanh tra viên cao cấp trong tổng số cán bộ phải được xây dựng để có kế hoạch đào tạo cũng như bổ nhiệm các chức danh thanh tra.
– Về chỉ đạo hoạt động thanh tra: Theo quy định của pháp luật hiện hành, các cơ quan thanh tra phụ thuộc vào các cơ quan hành chính cùng cấp về kinh phí, hoạt động, chương trình, kế hoạch, biên chế, tổ chức, nhân sự. Trong khi đó, pháp luật còn thiếu các quy định bảo đảm cho hoạt động thanh tra có tính độc lập cao, nhất là hoạt động tác nghiệp của Đoàn thanh tra, thanh tra viên, thể hiện ở những nguyên nhân chính sau:
+ Thủ trưởng cơ quan thanh tra không có thẩm quyền phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra, trong khi đó vai trò của Thanh tra Chính phủ trong việc định hướng xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong việc chỉ đạo xác định trọng tâm, trọng điểm công tác thanh tra đối với toàn ngành còn rất nhiều hạn chế. Ngoài ra, việc giao thẩm quyền cho Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra của các cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực là không phù hợp với tổ chức, hoạt động của cơ quan thanh tra vì trên thực tế chức năng thanh tra hành chính của các cơ quan này không được thực hiện. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước không thể lập chương trình, kế hoạch thực hiện chức năng thanh tra hành chính tại cơ quan, đơn vị mình cũng như khó có thể phê duyệt chương trình, kế hoạch thanh tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình.
+ Thẩm quyền tự quyết định việc thanh tra còn hạn chế, nhất là quyết định thanh tra đột xuất. Luật thanh tra quy định Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thanh tra đột xuất, trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật cần phải thanh tra kịp thời thì Chánh thanh tra các cấp, các ngành ra quyết định thanh tra, đồng thời báo cáo với Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Quy định trên làm hạn chế quyền thanh tra đột xuất của Chánh thanh tra các cấp, các ngành, bởi vì nếu đề nghị Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước ra quyết định thanh tra thì sẽ không đảm bảo kịp thời về mặt thời gian; nếu Chánh thanh tra ra quyết định thanh tra nhưng sau đó Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước không đồng ý với nội dung, chương trình kế hoạch thanh tra sẽ dẫn đến vấn đề trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan thanh tra, nên trong thực tế rất ít khi Chánh thanh tra các cấp, các ngành ra quyết định thanh tra đột xuất.
+ Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên không được ra kết luận thanh tra và tự chịu trách nhiệm về kết luận của mình. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tính độc lập của Đoàn thanh tra bị hạn chế, phụ thuộc vào người ra quyết định thanh tra.
– Về xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra. Nguyên nhân của tình trạng Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước không xử lý kịp thời các kết luận, kiến nghị của cơ quan thanh tra là do thiếu cơ chế bảo đảm thực thi kết luận, quyết định xử lý sau thanh tra; thiếu cơ chế theo dõi, đôn đốc, đánh giá việc thực hiện các kiến nghị của cơ quan thanh tra…
Nguồn: Phạm Văn Phong