I. Khái quát chung về nguồn của Luật quốc tế
1. Khái niệm nguồn của Luật quốc tế
Nguồn của Luật quốc tế là những hình thức biểu hiện sự tồn tại hay chứa đựng các nguyên tắc, quy phạm pháp luật quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của Luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 38 Quy chế Tòa án Công lý Quốc tế thì nguồn của Luật quốc tế bao gồm : Điều ước quốc tế; Tập quán quốc tế; Các nguyên tắc pháp luật chung; Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế; Các học thuyết về Luật quốc tế… Tuy nhiên, trên thực tế vai trò của các nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ và hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia cũng đóng vai trò quan trọng và không thể phủ nhận.
Trong các loại nguồn được liệt kê trên thì điều ước quốc tế ( nguồn thành văn) và tập quán quốc tế ( nguồn bất thành văn) có thể xem là hai loại nguồn chủ yếu, cơ bản và có vai trò quan trọng nhất.
2. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế theo Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế ký kết giữa các quốc gia thì điều ước quốc tế được xác định là : “ một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì”.
Như vậy, với tư cách là nguồn cơ bản của Luật quốc tế, điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm thiết lập những quy tắc pháp lý bắt buộc gọi là những quy phạm luật quốc tế để ấn định, thay đổi hoặc hủy bỏ những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Trong quan hệ quốc tế hiện nay, điều ước quốc tế chủ yếu được trình bày dưới dạng thành văn.
Quá trình ký kết và thực hiện điều ước quốc tế được điều chỉnh bởi các nguyên tắc, quy phạm pháp luật và tuân thủ các quy phạm jus cogens của Luật quốc tế. Điều kiện để một điều ước quốc tế trở thành nguồn của Luật quốc tế : Không phải tất cả các điều ước quốc tế ký kết đều là nguồn của Luật quốc tế. Một điều ước muốn trở thành nguồn của luật quốc tế phải thỏa mãn các nguyên tắc sau :
- Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng trong quá trình ký kết điều ước quốc tế;
- Nguyên tắc điều ước quốc tế phải có nội dung phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế;
- Nguyên tắc điều ước quốc tế ký kết phải phù hợp với pháp luật của các bên ký kết về thẩm quyền và thủ tục ký kết.
Như vậy, mọi văn bản pháp luật quốc tế đều là điều ước quốc tế là chưa chính xác, nếu văn ản pháp lý quốc tế đó không phải là điều ước quốc tế khi không thỏa mãn các nguyên tắc ở trên.
3. Tập quán quốc tế
Tập quán quốc tế đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành Luật quốc tế. So với điều ước quốc tế, tập quán quốc tế ra đời sớm hơn. Đó là những quy tắc xử sự chung ban đầu do một hay một số quốc gia đưa ra và áp dụng trong quan hệ với nhau. Sau một quá trình áp dụng lâu dài, rộng rãi và được nhiều quốc gia thừa nhận như những quy phạm pháp lý nên những quy tắc xử sự đó đã trở thành tập quán quốc tế.
Từ đây có thể thấy, tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự chung, hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể của Luật quốc tế thừa nhận rộng rãi là những quy tắc có tính chất pháp lý bắt buộc.
Trong thực tiễn quan hệ pháp lý có rất nhiều loại tập quán pháp lý khác nhau, trong đó có những tập quán là nguồn của tư pháp quốc tế, như các tập quán về thương mại quốc tế, hàng hải quốc tế, tập quán về tôn trọng quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của các quốc gia…Tuy nhiên trong phạm vi này ta chỉ đề cập đến tập quán quốc tế với tư cách là nguồn của luật quốc tế.
Một số tập quán quốc tế được áp dụng điển hình như : Tập quán được “quyền chọn luật” cho phép các đương sự được quyền chọn luật nước ngoài để điều chỉnh cho hợp đồng mà mình ký; tập quán “luật quốc tịch” quy định pháp nhân mang quốc tịch nước nào thì địa vị pháp lý của nó do luật nước đó quy định; tập quán “ tòa án hoặc trọng tài nước nào khi giải quyết tranh chấp có quyền áp dụng các quy tắc tố tụng của nước đó”…
Quá trình thành lập tập quán quốc tế không thông qua hành vi kí kết mà nó được hình thành trong thực tiễn quan hệ quốc tế và được sự thừa nhận của các chủ thể Luật quốc tế.
Con đường hình thành tập quán quốc tế gắn liền với quá trình thành lập tập quán quốc tế rất lâu dài và đòi hỏi phải có sự liên tục. Không có một thước đo chung cho thời gian hình thành các tập quán pháp có thể nói lên đến trăm năm thậm chí là hàng ngàn năm.
II. Đại dương và luật quốc tế hiện đại
1. Đại dương và những thách thức mới (1)
Từ cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI là giai đoạn của các thành tựu về khoa học kỹ thuật, về toàn cầu hoá các quan hệ quốc tế và về nền kinh tế tri thức. Thế giới đã hình thành “khoảng không gian chung” về thông tin – pháp lý và về kinh tế – tài chính, trong đó có cách nhìn tiệm cận chung về đảm bảo các quyền của con người, của các dân tộc và của các quốc gia.
Chính trong các điều kiện đó, an ninh cộng đồng quốc tế cũng phải đối mặt với những mạo hiểm mới, những thách thức mới và những hiểm hoạ mới. Các vấn đề đó có thể là: các xung đột trong phạm vi của quốc gia hoặc trong nội khối của các tổ chức quốc tế; khủng bố quốc tế; các hoạt động tội phạm có tổ chức; nguy cơ phổ biến vũ khí giết người hàng loạt; khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu; hiểm hoạ môi trường; buôn bán ma tuý; và dịch tả trên quy mô lớn. Tất cả các sự kiện nói trên, trong một chừng mực nào đó có liên quan đến đại dương và Luật biển quốc tế.
Khó đánh giá hết tầm quan trọng của đại dương và vai trò của nó đối với đời sống con người. Vì đại dương là ngôi nhà chung, là cầu nối giữa các lục địa và giữa các nền văn minh của nhân loại, là tuyến đường giao thông thuỷ đặc biệt quan trọng được tạo thành từ các vùng biển với các chế độ pháp lý khác nhau. Trong đó phần lớn là biển cả, vùng biển không thuộc chủ quyền của bất cứ một quốc gia nào. Điều đó được thể hiện trong nguyên tắc tự do biển cả: tự do thuỷ vận; tự do hàng không; tự do lắp đặt dây cáp, ống dẫn ngầm; tự do đánh cá; tự do nghiên cứu khoa học; tự do xây dựng các đảo và lắp đặt các công trình nhân tạo. Tự do biển cả không có nghĩa là tự do một cách tuyệt đối, mà tự do phải phù hợp với định chế của Công ước Liên hợp quốc (LHQ) về Luật biển năm 1982 (sau đây gọi là Công ước năm 1982) và các quy phạm khác của Luật quốc tế [1].
Tự do hợp tác trong khai thác và sử dụng biển cả một cách hợp lý, vì mỗi quốc gia là một thành viên của cộng đồng quốc tế nên quyền tự do biển cả cần tính đến sự hài hoà về lợi ích giữa các quốc gia. Nguyên tắc tự do biển cả (Điều 87) là quy phạm có tính chất mệnh lệnh của Luật biển quốc tế nên các quốc gia không thể tự thoả thuận với nhau để thay đổi nó [2]. Đây là nguyên tắc vô cùng quan trọng, trực tiếp giải quyết một vấn đề có tính toàn cầu đó là nhân loại cùng nghiên cứu và sử dụng đại dương phục vụ lợi ích cộng đồng. Trong thế giới hiện đại, ngành thuỷ vận quốc tế đã ngày một trở nên quan trọng trong hoạt động thông thương giữa các quốc gia, điều đó được khẳng định bằng tỷ trọng hàng hoá vận chuyển bằng đường biển ngày càng tăng(2). Thế giới ngày càng đa cực, nhưng không vì thế mà hoà bình và an ninh quốc tế được trường tồn. Do đó các vấn đề về đại dương, về luật pháp quốc tế và hẹp hơn là Luật biển quốc tế hiện đại luôn được cộng đồng đặc biệt quan tâm.
Thuật ngữ “những thách thức mới và những hiểm hoạ mới” đã được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng quốc tế. Trong đó, thường người ta đề cập đến các vấn đề: về đói ngèo; bệnh tật; giảm dân số; lan chuyền rộng chất ma tuý; rửa tiền; bảo hiểm xã hội thấp; vi phạm các quyền cơ bản của con người; sự nguy hiểm đối với thảm hoạ hạt nhân; nội chiến và các xung đột khu vực có nguy cơ tiềm ẩn trở thành phổ biến toàn cầu; và môi trường sống ngày một xấu đi. Khủng bố ngày càng nguy hiểm hơn với tiềm ẩn sử dụng vũ khí giết người hàng loạt và bên cạnh đó là sung đột sắc tộc và tôn giáo sâu sắc.
Để giải quyết các vấn đề nói trên, theo sáng kiến của Tổng thư ký K. Anna, một Uỷ ban đặc biệt về các vấn đề toàn cầu: “những thách thức mới và những hiểm hoạ mới” đã được thành lập và đã nhận được hiến kế của Tổng thống Nga, V.V… Putin. Hiến kế đó đã được cụ thể bằng một dự thảo về định hướng nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của LHQ trong việc bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng quốc tế(3).
Các vấn đề “những thách thức mới và những hiểm hoạ mới” đã được Nhóm “Thế giới ngày càng bình yên: trách nhiệm to lớn của chúng ta” báo cáo tại cuộc họp lần thứ 59 Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) (2004) với cơ cấu gồm 6 chương:
1). Chiến tranh giữa các quốc gia;
2). Xung đột trong nội bộ các quốc gia, bao gồm cả nội chiến xẩy ra trên phạm vị lớn, vi phạm các quyền của con người và sự diệt chủng;
3). Đói ngèo, bệnh truyền nhiễm, bệnh tật, sự xuống cấp ngày càng trầm trọng của môi trường;
4). Vũ khí hạt nhân, phóng xạ, vũ khí sinh-hoá học;
5). Khủng bố;
6). Tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Các sự kiện liên quan đến đại dương trong những năm gần đây đã phần nào minh chứng thêm cho báo cáo trên, đó là nguy cơ đe dọa ngành thuỷ vận và cuộc sống của con người trên biển: những tên khủng bố Chechen chiếm phà của Thổ Nhĩ Kỳ “Avrasia” năm 1996; vụ khủng bố nổ tàu khu trục Mỹ “Coul” năm 2000; vụ tàu chở dầu của Pháp “Limbua” năm 2002; các vụ cướp biển của hải tặc Somalia (như vụ bắt giữ tàu chở vũ khí MV Faina của Ucraine; và tàu chở dầu siêu lớn Sirius Star của Saudi Arabia) trong thời gian gần đây (2008) ở vùng vịnh Aden đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát của khu vực. Các sự kiện đó đòi hỏi phải có sự nhập cuộc của LHQ, mặc dù Hội đồng Bảo an LHQ đã thông qua 4 Nghị quyết cho phép tấn công hải tặc (4). Trên thực tế NATO, Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia Châu Âu đã trực tiếp tham gia chống cướp biển tại khu vực này (5). Như vậy, khủng bố nhằm vào các tuyến đường giao thông thuỷ, vào các tàu và các hải cảng có thể là nguyên nhân làm bất ổn về tình hình chính trị và làm tê liệt nền kinh tế thế giới, vì vận tải biển ngày càng phát triển theo hướng tự do hoá (kể cả vận tải trong khuôn khổ WTO/GATS) như là một ngành công nghiệp thúc đẩy sự tăng trưởng thương mại toàn cầu.
Cộng đồng quốc tế đã thông qua các biện pháp cứng rắn nhằm đối phó với khủng bố quốc tế và chấm dứt việc chuyên chở bằng đường biển các loại vũ khí giết người hàng loạt, ma tuý và các loại hàng cấm khác. Dưới sự bảo trợ của Tổ chức biển quốc tế và trên cơ sở Công ước về đấu tranh với các hành vi chống an ninh hàng hải quốc tế, bước đầu cộng đồng quốc tế đã thông qua Nghị định thư bổ sung cho Công ước này vào năm 2005 và Nghị định thư về đấu tranh với các hành vi chống an ninh các công trình ở thềm lục địa năm 1988. Chúng ta biết rằng, đại dương với các chế độ pháp lý khác nhau có thể được sử dụng để đề phòng các cú (học thuyết) đánh phủ đầu (the legal doctrine of preemptive strikes). Mặc dù, điều 51(6) Hiến chương LHQ đã ghi nhận về quyền tự vệ của các quốc gia, nhưng thế giới đã, đang và còn tiếp tục phân tích về điều 51 và Điều 51 Hiến chương LHQ quy định “Không có một điều, khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ chính đáng của cá nhân hay tập thể trong trường hợp thành viên LHQ bị tấn công vũ trang cho đến khi HĐBA chưa áp dụng những biện pháp cần thiết để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp mà các
thành viên LHQ áp dụng trong việc bảo vệ quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho HĐBA và không được làm ảnh hưởng gì đến quyền hạn và trách nhiệm của HĐBA. Chiếu theo Hiến chương này, bất kỳ lúc nào HĐBA áp dụng những hành động mà Hội đồng thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế”.
Việc áp dụng nó như thế nào trong từng sự kiện quốc tế cụ thể. Ngoài ra, là vai trò và các quyết định của Hội đồng Bảo an LHQ cũng như các vấn đề khác liên quan đến đánh phủ đầu. Chính vì vai trò và trọng trách của Hội đồng Bảo an đối với hoà bình và an ninh quốc tế, cũng như nhiều sự kiện quốc tế đã diễn ra trong thời gian qua nên cộng đồng quốc tế đã đặt ra những vấn đề cấp thiết như: cần cải tổ Hội đồng Bảo an, về các tiêu chí phòng ngừa sử dụng vũ lực, điều kiện cụ thể cho cuộc tấn công tất yếu xẩy ra. Tất cả điều đó đều có quan hệ trực tiếp với các hành vi trên biển.
2. Pháp điển hoá Luật biển quốc tế(7)
Đại dương và quy chế pháp lý của nó luôn được các tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ đặc biệt chú ý. Chẳng hạn như, quy chế pháp lý của vùng nước nội thuỷ và vùng lãnh hải do Viện Luật quốc tế, hiệp hội Luật quốc tế (châu Mỹ, Ý, Nam Tư, các hiệp hội Luật biển) và các tổ chức quốc tế thực hiện. Năm 1930, Hội quốc liên đã tổ chức Hội nghị quốc tế về pháp điển hoá Luật quốc tế, nhưng kết quả đạt được không nhiều, chỉ công nhận quốc gia ven biển có lãnh hải riêng với ít nhất là 3 hải lý và một vùng tiếp giáp. Do vậy, trong một thời gian dài, chiều rộng lãnh hải mà các quốc gia tự xác định rất khác nhau. Ví dụ, từ thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 20, lãnh hải của Anh, Mỹ, Pháp và nhiều quốc gia khác có chiều rộng là 3 hải lý, Na Uy là 4 hải lý, Tây Ban Nha là 6 hải lý, các nước châu Mỹ-La-Tinh như Pêru, Chilê, Ecuador đã mở rộng lãnh hải của mình đến 200 hải lý(8). Từ khi thành lập, LHQ luôn chú trọng đến xây dựng Luật biển quốc tế, do đó đã thực hiện được những bước đi quan trọng và cụ thể. Đó là 3 lần tổ chức hội nghị quốc tế về biển vào các năm 1958, năm 1960 và 1973-1982. Tại hội nghị quốc tế về Luật biển được tổ chức ở (7) Tìm đọc: S.V. Molsov, Lịch sử biển quốc tế và việc pháp điển hoá.
Giơnevơ năm 1958, lần đầu tiên một hội nghị quốc tế được tổ chức với quy mô mở và bàn luận về chế độ pháp lý quốc tế của đại dương và chi tiết hoá việc sử dụng các vùng biển của đại dương. Hội nghị đã nghiên cứu các dự thảo quy chế về biển mà Uỷ ban LHQ về Luật biển đã chuẩn bị. Trên cơ sở đó Hội nghị đã thông qua được 4 Công ước điều chỉnh chế độ pháp lý các vùng biển và việc đánh bắt cá ở thế giới đại dương: 1). Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp; 2). Công ước về thềm lục địa; 3). Công ước về biển quốc tế; và 4). Công ước về đánh bắt cá và bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật ở biển cả. Nhưng đó là một kết quả còn khá khiêm tốn vì đại dương đang còn rất nhiều vấn đề cấp thiết mà Hội nghị lần này còn chưa đồng thuận.
Về bản chất, Hội nghị đã pháp điển hoá phần lớn các quy phạm luật biển quốc tế hiện đại, lựa chọn các quy phạm dưới dạng tập quán pháp quốc tế và các quy phạm điều ước điều chỉnh các quan hệ về chế độ pháp lý các vùng biển và các hoạt động khác nhau ở thế giới đại dương. Trong phần giới thiệu của Công ước về biển cả đã nhấn mạnh rằng nội dung của Công ước có tính chất như Tuyên bố chung về các nguyên tắc của Luật quốc tế, điều đó cũng có nghĩa là nội dung Công ước đã phản ảnh bản chất luật tập quán chung. Công ước về biển cả đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cái nhìn tổng quát của cộng đồng về biển cả, cũng như lấy kết quả làm cơ sở để phát triển Luật biển quốc tế(9).
Có thể nhận thấy rằng, việc thông qua các Công ước Giơnevơ đã khẳng định Luật quốc tế đã bước sang một giai đoạn phát triển tiến bộ, vì: Một là, trong Công ước về thềm lục địa, lần đầu tiên trong lịch sử pháp lý có các quy phạm phối hợp ở tầm quốc tế về đặc quyền của các quốc gia ven biển trong quản lý nguồn tài nguyên ở thềm lục địa và về giới hạn chiều rộng của nó. Mặc dù trong giai đoạn sau đó, cùng với sự phát triển tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các quốc gia mong muốn thiết lập giới hạn mới về chiều rộng của thềm lục địa bằng các tiêu chí mới cho phù hợp với luật quốc tế hiện đại và với vị thế của từng quốc gia (cần nhấn mạnh rằng, cho đến nay có 2 điều ước quốc tế cơ bản điều chỉnh quy chế thềm lục địa là: Công ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa và Công ước năm 1982); Hai là, Công ước về vùng tiếp giáp cũng là một điểm nhấn mới trong luật quốc tế vì đây là lần đầu tiên các quy phạm về khái niệm và về quy chế pháp lý vùng tiếp giáp được ghi nhận trên cơ sở một điều ước quốc tế đa phương. Hội nghị quốc tế về Luật biển lần thứ hai đã được tổ chức vào năm 1960, các quốc gia tham dự đã mất nhiều thời gian tranh luận về chiều rộng lãnh hải và vùng đánh cá cho các quốc gia ven biển, nhưng do bất đồng quan điểm giữa các quốc gia nên Hội nghị đã không đem lại kết quả, nhưng dù sao đó cũng là tiền đề cho Hội
nghị lần sau.
Do sự đa dạng của hoạt động ở đại dương và kết quả tiến bộ của khoa học kỹ thuật, năm 1970 Đại hội đồng LHQ đã thông qua quyết định triệu tập Hội nghị LHQ vào năm 1973 [3]. Thủ tục Hội nghị LHQ về Luật biển lần thứ 3, ngày 16/11/1973, được Đại hội đồng LHQ thông qua bằng Thoả thuận bất thành văn-Hiệp ước quân tử [4]. Thành công của Hội nghị lần thứ 3 về Luật biển và việc chính thức thông qua Công ước năm 1982 là một sự kiện trọng đại nhất trong quan hệ quốc tế nói chung và Luật quốc tế hiện đại nói riêng. Hội nghị đã kéo dài từ năm 1973-1982, một kết quả mà nếu tính về thời gian thì chưa từng có tiền lệ trong lịch sử của các hội nghị quốc tế.
Công ước năm 1982 là điều ước quốc tế tổng hợp, là mốc lịch sử quan trọng trong lĩnh vực pháp điển hoá vì sự phát triển tiến bộ của các quy phạm pháp luật quốc tế, đồng thời quy định cụ thể hoá hơn so với Công ước năm 1958.
Công ước năm 1982 đã quy định chế độ pháp lý của đại dương và điều chỉnh các dạng hoạt động cơ bản về sử dụng, nghiên cứu, khai thác và chinh phục đại dương phục vụ cho các điều kiện phát triển kinh tế-xã hội hiện đại [5]. Cần nhấn mạnh rằng, lần đầu tiên trong Công ước năm 1982 có những quy phạm rất đặc biệt (Điều 311) điều chỉnh “thăng bằng” quyền và lợi ích giữa các quốc gia khác nhau: các quốc gia hùng mạnh, các quốc gia công nhiệp phát triển, các quốc gia đang phát triển, và các quốc gia ven biển [6].
Như vậy, Luật biển quốc tế đã được pháp điển hoá trong một thời gian dài và có thể tóm tắt làm ba giai đoạn chính: giai đoạn 1, từ những năm 20 đến trước khi thành lập LHQ; giai đoạn 2, là từ khi LHQ bắt đầu hoạt động (1946) đến năm 1958; và giai đoạn 3, là từ giữa những năm 60 đến năm 1982(10).
3. Phân loại các vùng biển(11)
Theo Luật quốc tế hiện đại, đại dương được phân chia có điều kiện thành ba loại vùng biển với các tính chất pháp lý cơ bản khác nhau: 1). Loại thứ nhất, các vùng biển là một phần lãnh thổ không tách rời của quốc gia ven biển, mà trong đó có sự hiện diện chủ quyền của quốc gia ven biển (như: vùng nội thuỷ được ghi nhận tại Điều 5 Công ước năm 1958 và khoản 1 Điều 8 Công ước năm 1982; vùng lãnh hải được ghi nhận tại Điều 12 Công ước năm 1982); 2). Loại thứ hai, vùng biển không là một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển, nhưng lại thuộc quyền tài phán của quốc gia đó (vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa); và 3).
Loại thứ ba, đó là vùng biển không thuộc chủ quyền và không thuộc quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào (đó là biển cả hay còn gọi là biển quốc tế).
Cần nhấn mạnh rằng, chế độ pháp lý của các vùng biển được phân chia nói trên không giống nhau. Chẳng hạn như, trong vùng lãnh hải khác với vùng nội thuỷ là có sự qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài (quyền qua lại hoà bình cần được thực hiện phù hợp với quy định tại Điều 17 Công ước năm 1982 và Điều
14 Công ước năm 1958. Quyền qua lại vô hại này tương tự như thương quyền về tự do bay trên lãnh thổ ký kết không kèm hạ cánh – hay còn gọi là quyền qua lại vô hại trong luật hàng không dân dụng quốc tế). Trong vùng tiếp giáp thì các quốc gia ven biển thực hiện quyền kiểm tra các hoạt động trên biển trong một số lĩnh vực nhất định (Điều 33). Còn vùng đặc quyền kinh tế và vùng thềm lục địa thì quốc gia ven biển được thực hiện quyền chủ quyền quốc gia theo quy định tại Điều 77 Công ước năm 1982 và khoản 1 Điều 26 Công ước năm 1958, ví dụ trong vùng thềm lục địa thì quyền của quốc gia ven biển có tính đặc quyền, tức là các quốc gia khác không có quyền thăm dò, khai thác nguồn tài nguyên ở thềm lục địa nếu quốc gia ven biển không cho phép.
Như vậy, trong Luật quốc tế đã xuất hiện quy chế pháp lý hỗn hợp đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, vì ở đó có sự hiện diện quyền chủ quyền quốc gia ven biển và các quy phạm của Luật biển quốc tế được quy định trong Công ước năm 1982. Tất nhiên, cùng với việc thông qua phân loại các vùng biển thì
các vấn đề về eo biển, kênh, nước quần đảo, kể cả Bắc cực và Nam cực cũng vị trí đặc biệt quan trọng trong Công ước.
Như vậy, phân loại pháp lý các vùng biển kết thúc bằng việc thông qua Công ước năm 1982, trong đó ghi nhận cụ thể quyền của các quốc gia đối với các vùng biển và quy chế pháp lý đối với từng vùng. Cộng đồng quốc tế đã đạt được mục đích xây dựng được văn bản thành văn về các hoạt động ở thế giới đại dương.
4. Công ước năm 1982(12) và ý nghĩa của nó đối với Việt Nam
Dưới sự bảo trợ của Tổng thư ký LHQ và sự tham gia trực tiếp của Uỷ ban về đại dương và Luật biển của LHQ (Division for Ocean Affairs and the Law of the Sea) nên việc áp dụng Công ước năm 1982 ở các quốc gia luôn nhận được sự tham vấn từ các tổ chức chuyên môn. Nhưng, thực tiễn cho thấy Công ước năm 1982 còn thiếu các quy phạm dự báo về các yếu tố pháp lý cấu thành tội phạm có tính chất khủng bố và các biện pháp đấu tranh chống khủng bố. “Chỗ dột” này đã được bổ sung trong Công ước về đấu tranh với các hành vi chống lại an ninh hải vận và trong Nghị định thư về đấu tranh với các hành vi chống an ninh cảng tàu ở thềm lục địa năm 1988. Vì hoạt động của các quốc gia ở thế giới đại dương ngày càng đa dạng và phức tạp, theo chúng tôi, cộng đồng quốc tế cần phải bổ sung và hoàn thiện các loại văn bản này(13) . Cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, năm
1994(14) Việt Nam đã gia nhập Công ước năm 1982 và khẳng định chủ quyền đối với vùng nội thuỷ và vùng lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việt Nam là một quốc gia ven bờ biển Đông, vùng biển của Việt Nam án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạnh giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa các châu: Âu, Phi, Trung cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực. Biển Đông cũng là một trong 6 biển lớn nhất của thế giới với diện tích 3.447.000km2 , là vùng biển nửa kín(15), được bao bọc bởi 9 quốc gia: Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malayxia, Indonesia, Brunei, Campuchia, Singapore và Thailan. Đây cũng là vùng biển có nhiều tiềm năng về nguồn tài nguyên thiên nhiên nên đã từ lâu là đối tượng tranh chấp không chỉ của các quốc gia trong khu vực ASEAN mà còn có sự tham gia tích cực của một số quốc gia khác trên thế giới, do đó luôn tiềm ẩn nguy cơ xung đột, đe doạ hoà bình, ổn định và phát triển bền vững trong khu vực và xa hơn là trên toàn thế giới.
Việc gia nhập Công ước năm 1982 đối với Việt Nam là vô cùng quan trọng, vì mọi vấn đề về tranh chấp biển, về vùng chồng lấn trên biển và thềm lục địa ở biển Đông sẽ được giải quyết trên cơ sở Công ước năm 1982 và các văn bản pháp lý quốc tế hiện hành. Trong Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam ngày 23/6/1994 về phê chuẩn Công ước năm 1982 đã ghi nhận mọi tranh chấp sẽ được giải quyết trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau, tôn trong luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc
gia ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Cần nhấn mạnh rằng, vận tải biển của Việt Nam chiếm trên 80% lưu lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, nên để nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế thì Việt Nam phải tuân thủ và thực thi các quy phạm Luật quốc tế, các quy phạm trong các Công ước về Luật biển. Trong đó, quan trọng nhất là Công ước năm 1982 và một số các Công ước khác về bảo vệ môi trường biển, về đảm bảo quyền lợi cho các tổ chức vận tải và đánh cá. Ngoài ra, Việt Nam cần tham gia vào các điều ước, các công ước và các thoả thuận quốc tế mới.
Đại hội đồng LHQ, trong các nghị quyết hàng năm của mình về đại dương và về Luật biển đều kêu gọi các quốc gia điều chỉnh, sửa đổi pháp luật của quốc gia mình cho phù hợp với định chế của Công ước năm 1982. Điều đó đã được nhấn mạnh trong tuyên bố của thẩm phán Toà án biển quốc tế về thả lập tức vụ “Juno Trader”(16). Chính vì vai trò đặc biệt quan trọng của Công ước năm 1982 đối với con người ở đại dương, nên chúng tôi tạm mượn câu nói của giáo sư-chuyên gia Luật quốc tế Duff John để thay cho lời kết của bài viết, đó là chính phủ Mỹ cần phải phê chuẩn Công ước năm 1982 vì Công ước này có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như: an ninh quốc gia, triển vọng quốc phòng, ngoại giao, thương mại biển, các định hướng nghiên cứu khoa học biển, các quan điểm về khả năng phân định thềm lục địa, triển vọng công nghệ, công nghiệp và vấn đề về bảo vệ môi trường [7].
Chú thích:
(1) Tìm đọc thêm: The Law of the Sea. Progress and Progress. Ed. by D. reestone, R. Barnes, D. Ong. Oxford University Press, 2006; Churchill R.R., Lowe A.V. The law of the sea. 3nd ed. Manchester University Press, 1999; Public International Law. An Australian Perspective. 2nd ed./Ed. By Sam Blay, Ryszard Piotrowicz, Martin Tsamenyi. Oxford University Press, 2005; Reuter P. Le development de l?ordre Juridique international. Ecrits de droit international. Paris: Economica, 1995; Bolla Alexander J., Duff Jonh A., McDorman Ted L. International Ocean Law: Materials and Commentary. Carolina Academic Press, 2004; The law of the sea/ Ed. with an Introduction by U.N. Gupta. Vol.II. New Delhi, 2005; Evans M.D. International Law. 2nd ed. Oxford University Press, 2006; Cobalev A.A. Luật biển quốc tế hiện đại và việc áp dụng trong thực tiễn. M., 2003; Bicisev C.A. Luật biển quốc tế//Giáo trình công pháp quốc tế. M., 2004; Calotcin A.L. Luật biển quốc tế//Giáo trình công pháp quốc tế. M., 2001; Gusuliac V.N. Luật biển quốc tế (công pháp và tư pháp). M., 2006; Calotcin A.L., Gusuliac V.N. Luật biển quốc tế//Giáo trình Luật quốc tế. M., 2003; Covaleva A.A., Checnichenco S.V. Luật quốc tế. M., 2006; Scaridov A.S. Luật biển. Xanh – Petebua., 2006.
(2) Tìm đọc: United Nations Conference on the Trade and evolopment, Geneva. Review of Martime Transport 005, Report by the UNCTAD secretariat/UN. New York
and Geneva, 2005; Báo cáo tóm tắt của Ban thư ký Liên ợp quốc về vận tải biển năm 2004 tại Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển. Genever, 2004.
(3) Tìm đọc: Izovetia, 2003. Ngày 03 tháng 12 năm 2003.
(4) Đọc thêm: Báo Pháp luật, Số 351 (1868), 23.12.2008, Tr.16.
(5) http://vietbao.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=62247206&pop=1&p…
(6) Điều 51 Hiến chương LHQ quy định “Không có một điều, khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ chính đáng của cá nhân hay tập thể trong trường hợp thành viên LHQ bị tấn công vũ trang cho đến khi HĐBA chưa áp dụng những biện pháp cần thiết để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp mà các thành viên LHQ áp dụng trong việc bảo vệ quyền tự vệ chính đáng ấy phải được báo ngay cho HĐBA và không được làm ảnh hưởng gì đến quyền hạn và trách nhiệm của HĐBA. Chiếu theo Hiến chương này, bất kỳ lúc nào HĐBA áp dụng những hành động mà Hội đồng thấy cần thiết để duy trì hoặc khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế”.
(7) Tìm đọc: S.V. Molsov, Lịch sử biển quốc tế và việc pháp điển hoá. M., 1987. Tr.67-68.
(8) http//vi.wikipedia.org./
(9) Xem cụ thể thêm: L.V. Scalova, Khái niệm và quy chế pháp lý biển cả. M., 1988. -Tr. 11-14.
(10) Nhiều nhà khoa học có các quan điểm phân chia các giai đoạn khác nhau. Ví dụ, theo Calotcin A.L. thi giai đoạn 1, là từ khi chuẩn bị và thông qua công ước về luật biển năm 1958; giai đoạn 2, từ sau công ước năm 1960; và giai đoạn 3, là từ khi chuẩn bị công ước năm 1982 (Xem.: Calotcin A.L. M., 1972. Tr. 26-30). Hoặc là, theo Gusuliac V.N. cho rằng, trong lịch sử phát triển luật biển quốc tế hiện đại có thể chia thành hai giai đoạn, giai đoạn 1 gắn với sự thông qua công ước về luật biển năm 1958; và giai đoạn 2 là từ hội nghị quốc tế lần 3 về luật biển 1973-1982 (Xem.: Gusuliac V.N. Luật biển. M., 2000. Tr.7) .
(11) Tìm đọc thêm: Gureeva S.A. Giáo trình Luật biển quốc tế. M., 2003; Colosova U.M và Cudonhesov V.I. Luật quốc tế. M., 1955. -Tr.457-459; Tuncin G.I. Luật quốc tế. M., 1982. -Tr. 413-415; Basegov U.G. Đại dương: pháp luật, chiónh trị và ngoại giao. M., 1983. -Tr. 87-96; Labrecque Georges. Les Frontieres Maritimes Internationales. Geopolitique de la delimitation en mer. Collection Raoul-Dandurand. France-Hongrie-Italie. Paris, 2004; Clingan Thomas A. Maritime Boundary// The Law of the Sea. Ocean Law and Policy. New York; Oxford, 1994. P.225-229; Elferink Alex G. Oude. The Law and Politics of the Maritime Boundary Delimitations of the Russian Federation. Part 2//The International Journal of Marine and Coastal Law. 1997. Vol. 12. No1. P.5-35; Duff John A. A Note on the United States and the Law of the Sea: Looking Back and Moving Forward// Ocean Dovolopment and International Law. 2004. Vol.35.ạ3. P. 195-219; Rosenne Shabtai. Geography in International Maritime Boundary-Making// Law of the Sea/ Ed. by Hugo Caminos. England, 2001. P.225-240; Kwiatkowska Barbara. Equitable Maritime Boundary Delimitation – A Legal Perspective// Law of the Sea/ Ed. by Hugo Caminos. England, 2001. P.241-260.
(12) Tìm đọc thêm: Scott Shirley V. Convention as a Constitutional Regime for the Oceans// Stability and Change in the Law of the Sea: The Role of the LOS Convention/ Ed. By Alex G. Oude Elferink. Leiden; Boston, 2005. P.9-38; Treves Tullio. The General Assembly and the Meeting of States Parties in the Implementation of the LOS Covention//Ibid. P.55-74; Churchill R.R. The Impact of State Practice on the Jurisdictional Framework contained in the LOS
Covention//Ibid. P.9-144; Freestone David, Elferink Alex G. Oude. Flexibility and Innovation in the Law of the Sea – Will the LOS Convention Amendment Procedures Ever Be Used?//Ibid. P.169-222; Joyner Christopher C., Martell Elizabeth. Looking Back to see Ahead: UNCLOS III and Lessons for Global Commons Law//International Law. Classic and Contemporary Readings/Ed. by Charlotte Ku
and Paul F. Diehl. London, 2003. P.441-469; Boyle Alan E. Further development of the Law of the Sea Convention: mechanisms for change// International and
Comparative Law Quarterly. 2005. No54 (3). P.563-584; Song Yann-Huei. Declarations and Statements with respect to the 1982 UNCLOS: potential legal disputes between the United States and China after U.S. accession to the Convention// Ocean Development and International Law. 2005. No36 (3). P. 261-289; Treves Tullio. The Law of the Sea Convention. Ten Years after Entry into Force: Positive Developments and Reasons for Concern// Bringing New Law to Ocean Waters/Ed. by David D. Caron, Harry N. Scheiber. Leiden; Boston. 2004, Vol.47. P.349-354; Calotcin A.L. Công ước Liên hợp quốc về Luật biển: Ý nghĩa và các quan điểm mới trong áp dụng//Luật quốc tế. 2001. số 4 (13).
(13) Hiện nay đã có 13 Công ước quốc tế có định hướng chống khủng bố.
(14) Đọc thêm: Tuyên bố ngày 12/5/1977 của Chính phủ Việt Nam về lãnh hải, tiếp giáp lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, Việt Nam thiết lập vùng đặc quyền kinh tế là 200 hảI lý; Tuyên bố ngày 12/11/1982 của Chính phủ Việt Nam về đường cơ sở.
(15) Theo điều 122 Công ước năm 1982 thì biển kín hay biển nửa kín là một vịnh, một vũng hay một vùng biển do hai hay nhiều quốc gia bao bọc xung quanh và thông với một biển khác hay với đại dương qua một cửa hẹp, hoặc là hoàn toàn chủ yếu do các lãnh hải và các vùng đặc quyền kinh tế của nhiều quốc gia tạo thành.
(16) Declaration of Judge Kolodkin. Case No13. The “Juno Trader” Case (Saint Vincent and the Grenadines v. Guinea-Bissau), Prompt Release. Judgment of 18 December 2004// www.itlos.org/start2_en.html
Tài liệu tham khảo
[1] Lê Văn Bính, Tiệm cận các quy phạm Luật quốc tế, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế-Luật 24 (2008) 93.
[2] I.A. Brounli, Luật quốc tế, Quyển 1, M., 1977; A.L. Calotcin, Đại dương, Chế độ pháp lý quốc tế, Những vấn đề cơ bản, M., 1973.
[3] U.G. Basegov, Đại dương: pháp luật, chính trị và ngoại giao, M., 1983.
[4] G.I. Cudieucov, Luật quốc tế, Phần chung, Cadan, 2007.
5] D.D. Larson, Conventional, Customary, and Consensual Law in the United Nations Convention on the Law of the Sea, Ocean Development and International Law 25 (1994) 83; D.A. Govrilin, Những vấn đề lý luận trong thực
hiện Công ước Luật biển 1982 trong hệ thống pháp luật Nga, Tạp chí Luật Quốc tế 4 (2001) 179.
[6] A.L. Calotcin, Công ước Liên hợp quốc về Luật biển: Ý nghĩa và các quan điểm mới trong áp dụng, Tạp chí Luật quốc tế 4 (2001) 383.
[7] A. Duff John, A Note on the United States and the Law of the Sea: Looking Back and Moving Forwrad, Ocean Development and International Law 35 (2004) 195.
Guinea-Bissau), Prompt Release. Judgment of 18 December 2004// www.itlos.org/start2_en.html
Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo và có thể một số thông tin pháp lý đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.
III. Vai trò của các nguyên tắc cơ bản trong việc hình thành và phát triển của Luật quốc tế
Trong quá trình xây dựng Luật quốc tế các ngyên tắc cơ bản của Luật quốc tế đóng góp vai trò khá quan trọng. Các nguyên tắc của Luật quốc tế là nền tảng, nguồn góp phần tròn việc xây dựng và hoàn thiện Luật quốc tế.
Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là nền tảng của quan hệ quốc tế hiện đại, Hiến chương Liên hợp quốc đã lấy nguyên tắc này làm cơ sở cho hoạt động của mình: “Liên Hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các thành viên” ( khoản 1 Điều 2). Nguyên tắc này là nền tảng quan trọng nhất của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc Luật quốc tế hiện đại, nó đã được ghi nhận trong điều lệ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc, của tuyệt đại đa số các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức khu vực, trong nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương và trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng của các hội nghị và tổ chức quốc tế. Qua đó các quy định của Luật quốc tế được xây dựng dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia vì trong quan hệ quốc tế việc xác định chủ quyền quốc gia có vai trò rất quan trọng. Việc thực hiện chủ quyền quốc gia sẽ khẳng định được vị thế của quốc gia trong hoạt động đối nội cũng như là đối ngoại. Ngoài ra, các nguyên tắc khác cũng góp phần xây dựng Luật quốc tế, cụ thể hóa qua các điều ước, tuyên bố, định ước… trong khuôn khổ Liên Hợp quốc.
Nguyên tắc cấm đe dọa dung vũ lực hay dùng vũ lực được quy định tại khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên Hợp quốc. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong một loạt các văn bản quốc tế quan trọng như Tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc ( được Đại hội đồng thông qua năm 1970), Định ước Henxinki năm 1975,…
Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác xuất hiện đầu tiên trong các hiến pháp của một số nước tư sản thời kỳ cách mạng tư sản của châu Âu đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp quốc tại khoản 7 Điều 2. Nguyên tắc này đã góp phần vào điều chỉnh mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia trong tuyên bố của Liên Hợp quốc về các nguyên tắc của Luật quốc tế liên quan đến hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia năm 1970. Ngoài ra, nguyên tắc này đã được ghi nhận trong nhiều văn ban quốc tế quan trọng như Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị các nước Á-Phi năm 1975 tại Băng-đung, Hiệp định Geneve,.. Các quy phạm Luật quốc tế do chính các chủ thể của Luật quốc tế xây dựng, không phải do một cơ quan quyền lực nào sáng tạo nên. Các quy phạm đó được xây dựng dựa trên cơ sở bình đẳng chủ quyền và trên cơ sở thỏa hiệp và nhân nhượng giữa các chủ thể của hệ thống pháp luật này. Có nghĩa là trong quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế các chủ thể phải cố gắng đạt được sự thỏa hiệp tương ứng với các quy tắc xử sự và bên cạnh đó quan hệ với nhau, các chủ thể có cùng công nhận quy tắc xử sự đó là bắt buộc (pacta sunt servanda).
Xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế hiện nay là sự hội nhập, hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi. Sự hợp tác giữa các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế đã được pháp luật hóa trong các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Ý tưởng về sự hợp tác giữa các quốc gia lần đầu tiên được thể hiện trong khoản 3 Điều 4 Hiến chương Liên Hợp quốc, rằng một trong những mục đích của tổ chức là “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn để quốc tế kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, khuyến khích và phát triển dsự tôn trọng các quyền của con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi ngừoi không phjân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Mặc dù Hiến chương LHQ không ghi nhận nghĩa vụ các quốc gia phải hợp tác với nhau như một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhưng trong nhiều điều khoản của Hiến chương lại nhắc đến sự hợp tác giữa các quốc gia như là nguyên tắc tồn tại của cộng đồng quốc tế. Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc về các nguyên tắc của Luật quốc tế đã mở rộng nội dung pháp lý của nguyên tắc này, theo đó “các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế không phụ thuộc vào hệ thống chính trị, kinh tế và văn hóa, nhằm mục đích duy trì hoà bình, an ninh quốc tế và góp phần vào việc ổn định kinh tế thế giới, vì sự phồn vinh chung của các dân tộc và hợp tác quốc tế”.
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hòa bình gải quyết các tranh chấp quốc tế này gắn liền với sự hình thành và phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và là hệ quả tất yếu của nguyên tắc này. Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả năng tiềm ẩn phát sinh từ các mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó là hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các chủ thể luật quốc tế có những quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau ” không thống nhất được về quyền và lợi ích ” xung đột, mâu thuẫn. Liên hợp quốc cùng với bản Hiến chương của mình lần đầu tiên đã nâng vấn đề giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế lên thành nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia. Khoản 3 điều 2 Hiến chương ghi nhận: “Hội viên Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng phương pháp hòa bình, làm thế nào khỏi nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế cũng như đến công lý”. Cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, với việc tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, hiện nay cộng đồng quốc tế đang dần thừa nhận vai trò cũng như tính hiệu quả của các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của các tổ chức quốc tế như: EU, Asean, Liên Hợp quốc,…
IV. Vai trò củ phán quyết trong việc hình thành quy phạm Luật Quốc tế
Theo Điểm b khoản 1 Điều 38 Quy chế Tòa án quốc tế qui định những yếu tố để được công nhận là tập quán quốc tế là sự áp dụng thường xuyên của quốc gia và được thừa nhận là quy phạm pháp lý bắt buộc (opinio juris). Theo đó, nội dung của Điều 38 Tòa án quốc tế hướng dẫn tập quán quốc tế đã được thừa nhận là qui phạm pháp luật phải được các quốc gia thừa nhận và áp dụng thường xuyên, mà sự áp dụng thường xuyên này khó có thể chứng minh rõ ràng.
Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán quốc tế cũng là một trong các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Hiện nay, có các cơ quan tài phán quốc tế giải quyết các tranh chấp trên biển được ghi nhận để trong Hiến chương LHQ: Tòa án quốc tế, Trọng tài quốc tế và cơ quan tài phán được hình thành trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế.
Những quyết định của tòa án, trọng tài cũng như những học thuyết của các chuyên gia lớn không phải là các nguồn chinshc ủa luật quốc tế. chúng chỉ là những giải pháp của Tòa án, trọng tài, của các cơ quan tài phán quốc tế khác về những vấn đề pháp luật cụ thể. Các quyết định tài phán này chỉ có giá trị res inter alios acta (chỉ có giá trị đối với bên cam kết), theo Điều 59 Quy chế của Tòa: “Quyết định của Tòa có giá trị bắt buộc chỉ đối với các bên tham gia vụ án và chỉ đối với các vụ án cụ thể đó”
Cơ quan tài phán quốc tế sẽ xem xét và lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ việc. Tuy nhiên, quy phạm pháp luật nhiều khi mang tính nguyên tắc, chung chung, chưa thể áp dụng vào một trường hợp cụ thể để giải quyết vụ việc. Khi đó cơ quan tài phán sẽ phải xem xét lựa chọn quy phạm nào để áp dụng mà còn phải giải thích ý nghĩa của các quy phạm đó. Sự giải thích của cơ quan tài phán thường được viện dẫn áp dụng và giải quyết các vụ việc tương tự sau này và dần được thừa nhận rộng rãi, trở thành các quy phạm pháp luật quốc tế.
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp, các phán quyết của cơ quan tài phán quốc tế thường được căn cứ vào những án lệ đã có từ trước để xác định những quy tắc. Vì vậy, chúng là nguồn bổ trợ để xác định cá quy phạm pháp luật. Các cơ quan tài phán quốc tế đều viện dẫn sử dụng những kết luận của các vụ án trước trong việc xem xét tìm giải pháp giải quyết các tranh chấp hiện tại. Các kết luân của cơ quan tài phán quốc tế được xây dựng theo một thể thống nhất, một logic luật thống nhất. Điều này được chứng minh bởi từ thực tiễn của cả Pháp viện thường trực quốc tế và Tòa án công lý quốc tế, thường viện dẫn các quyêt định của mình. Theo vậy không phải các giải quyết tranh chấp của cơ quan tài phán quốc tế là rập khuôn một cách sao rỗng về hình thức, trong quá trình giải quyết tranh chấp, Tòa án còn đưa ra nhiều định nghĩa và nguyên tắc mới. Các nguyên tắc này trở thành cơ sở của áp dụng tập quán và các điều ước quốc tế và nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành quy phạm pháp luật quốc tế.
Một trong những ví dụ điển hình, chứng minh cho vai trò của cơ quan tài phán quốc tế trong việc hình thành các quy phạm pháp luật quốc tế là vụ Ngư trường Nauy (Anh kiện Nauy)
1. Sự kiện
Nửa đầu thế kỷ XX, tranh chấp giữa anh và Nauy về quyền đánh cá trong khu vực biển ngoài khơi Nauy, phía Bắc của vòng cung bắc cực, ngày càng trở nên trầm trọng. Các tàu đánh cá của Anh kéo rất đông đến khu vực này và được trang bị ngày càng tốt hơn. Nauy cho rằng họ có quyền bảo tồn nghề các cho ngư dân của họ trong các khu vực này, khi Vương quốc Anh cho rằng các khu vực này là biển cả và ngư dân của mọi quốc gia có quyền đnáh bắt cá, không có bất kỳ một quyền bảo tồn riêng biệt nghề các cho ngư dân của bất kỳ nước nào. Bỏ qua sự phản đối của Anh, Chính phủ Nauy đã quyết định hoạch định khu vực biển đó bằng Nghị định ngày 12-07-1935. Điều này dẫn tới việc Vương quốc Anh đặt vấn đề nhờ pháp viện thường trực quốc tế xem xét. Ngày 28-9-1948, Vương quốc Anh đơn phương thỉnh kiện Tòa án công lý xem xét đường hoạch định khu vực đánh cá của Nauy ở phía Bắc kinh tuyến 66*22’48” được quy định trong Nghị định ngày 12-7-1935 có phù hợp với luật quốc tế hay không. Vương quốc Anh cũng yêu cầu Tòa tuyên bố rằng Nauy phải bồi thường mọi thiệt hại do việc họ bắt giữ các tàu đánh cá của Anh sau ngày 16-9-1948 tại các vùng biển được coi là biển cả.
2. Phán quyết ngày 18-12-1951
Anh giữ quan điểm rằng độ dài của đường cơ sở thẳng không nên vượt quá 10 hải lý. Tuy vậy, Tòa tuyên bố “quy tắc 10 hải lý không phải là quy tắc chung của luật quốc tế.”. Không có điểm nào trong Điều 7 cũng như các điều khác của Công ước Luật Biển năm 1982 đề cập đến vấn đề này.
Đường cơ sở thẳng có thể coi là chấp nhận được nếu nó đáp ứng được điều kiện đề ra tại Điều 7, khoản 3 của Công ước Luật Biển năm 1982. Theo đó, đường cơ sở phải đi theo hướng chung của bờ biển và vùng nước phía bên trong đường cơ sở phải gắn với đất liền đủ đến mức có thể đặt dưới chế độ nội thủy. Quy định này được phát triển từ Phán quyết trong vụ Ngư trường Anh – Na Uy. Góc lệch tối đa 20o giữa đoạn đường cơ sở thẳng và hướng của bờ biển được coi là một quy tắc phổ biến
Trong Phán quyết đó, Tòa chấp nhận việc sử dụng rìa ngoài tại ngấn nước thủy triều thấp của các đá làm điểm cơ sở mà không có bất cứ ngọn hải đăng hay công trình nào tương tự xây trên đó. Trên thực tế, rất hiếm trường hợp mà quy chế của bãi cạn nửa nổi nửa chìm lại được công nhận rộng rãi như vậy.
Phán quyết năm 1951 của Tòa án Công lý quốc tế đã tuyên bố: “ Người ta không thể khăng khăng biểu thị đường ngấn nước thủy triều thấp nhất như một nguyên tác bắt buộc chạy theo bờ biển tại tất cả các chỗ uốn ngập của nó. Người ta cũng thể biểu tị như các ngoai lệ của quy tác này, các vi phạm nhiều đến nõi chúng gợi lên các mấp mô của một bờ biển gồ ghề; quy tác này sẽ mất đi trước các ngoại lệ. Toàn bộ một đường bờ biển như vậy đòi hỏi áp dụng một phương pháp khác: đó là đường cơ sở cách đường hình thể của bờ biển một khoảng hợp lý”
Với phán quyết trên, Tòa án công nhận việc phân định của Nauy dựa trên kỹ thuật đường cơ sở thẳng không trái với luật quốc tế. Điều này có ý nghĩa rất quan trong trong việc hình thành các quy phạm pháp luật quốc tế sau này, cụ thể như sau:
– Phán quyết đã ở đầu cho việc công nhận rộng rãi phương pháp đường cơ sở thẳng dùng đê tính chiều rộng lãnh hải. Các tiêu chuẩn của đường cơ sở thẳng nauy, qua phán quyết của Tòa, đã trở thành các tiêu chuẩn chung được pháp luật quốc tế thừa nhận và được điển chế hóa trong các công ước của Liên hợp quốc về Luật biển – Công ước Gevana năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
Điều 7 của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 quy định:
“1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.
3. Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.
4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.
5. Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.
6. Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.
– Phán quyết đã đặt nền móng cho việc thống nhất định nghĩa vịnh, được ghi nhận trong Điều 7 của Công ước 1958 và Điều 10 của Công ước Luật biển năm 1982; vịnh cần được hiểu là một vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền mà chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở noài cửa của nó đến mức là nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh và vùng đó lõm sâu hơn một sự uốn cong của bờ biển.
– Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế ngày 18-12-1951 về vụ ngư trường Anh-Nauy cũng đưa ra dịnh nghĩa về vịnh lịch sử [2]: “Người ta gọi chung “vùng nước lịch sử” là các vùng nuosc mà người ta đối xử như các vùng nuosc nội thủy, trong khi đó cả vùng nuosc này thiếu mọt danh nghĩa lịch sử thì nó sẽ không có tính chất đó”.
– Phán quyết đã đề cập khái niệm estopel trong luật quốc tế. Sự im lặng của Anh hơn 70 năm đã đuợc coi như sự mặc nhiên thừa nhận hệ thống đường cơ sở thẳng của Nauy.
– Phán quyết còn được coi như một ví dụ trong việc phát triển lý thuyết mới của luật quốc tế: hiệu lực của sự phản đối bền bỉ – Persistant objiection/Objecteur persistant. Thực tiễn của thiểu số các quốc gia, trong một thời gian dài đươc sự khoan dung của cộng đồng quốc tế có thể trở thành một quy phạm mới của luật quốc tế.
V. Vai trò của các nguyên tắc cơ bản trong việc hình thành Luật quốc tế
Trong quá trình xây dựng Luật quốc tế các ngyên tắc cơ bản của Luật quốc tế đóng góp vai trò khá quan trọng. Các nguyên tắc của Luật quốc tế là nền tảng, nguồn góp phần tròn việc xây dựng và hoàn thiện Luật quốc tế.
Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là nền tảng của quan hệ quốc tế hiện đại, Hiến chương Liên hợp quốc đã lấy nguyên tắc này làm cơ sở cho hoạt động của mình: “Liên Hợp quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các thành viên” ( khoản 1 Điều 2). Nguyên tắc này là nền tảng quan trọng nhất của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc Luật quốc tế hiện đại, nó đã được ghi nhận trong điều lệ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp quốc, của tuyệt đại đa số các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức khu vực, trong nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương và trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng của các hội nghị và tổ chức quốc tế. Qua đó các quy định của Luật quốc tế được xây dựng dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia vì trong quan hệ quốc tế việc xác định chủ quyền quốc gia có vai trò rất quan trọng. Việc thực hiện chủ quyền quốc gia sẽ khẳng định được vị thế của quốc gia trong hoạt động đối nội cũng như là đối ngoại. Ngoài ra, các nguyên tắc khác cũng góp phần xây dựng Luật quốc tế, cụ thể hóa qua các điều ước, tuyên bố, định ước… trong khuôn khổ Liên Hợp quốc.
Nguyên tắc cấm đe dọa dung vũ lực hay dùng vũ lực được quy định tại khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên Hợp quốc. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa trong một loạt các văn bản quốc tế quan trọng như Tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên Hợp quốc ( được Đại hội đồng thông qua năm 1970), Định ước Henxinki năm 1975,…
Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác xuất hiện đầu tiên trong các hiến pháp của một số nước tư sản thời kỳ cách mạng tư sản của châu Âu đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp quốc tại khoản 7 Điều 2. Nguyên tắc này đã góp phần vào điều chỉnh mối quan hệ quốc tế giữa các quốc gia trong tuyên bố của Liên Hợp quốc về các nguyên tắc của Luật quốc tế liên quan đến hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia năm 1970. Ngoài ra, nguyên tắc này đã được ghi nhận trong nhiều văn ban quốc tế quan trọng như Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị các nước Á-Phi năm 1975 tại Băng-đung, Hiệp định Geneve,.. Các quy phạm Luật quốc tế do chính các chủ thể của Luật quốc tế xây dựng, không phải do một cơ quan quyền lực nào sáng tạo nên. Các quy phạm đó được xây dựng dựa trên cơ sở bình đẳng chủ quyền và trên cơ sở thỏa hiệp và nhân nhượng giữa các chủ thể của hệ thống pháp luật này. Có nghĩa là trong quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế các chủ thể phải cố gắng đạt được sự thỏa hiệp tương ứng với các quy tắc xử sự và bên cạnh đó quan hệ với nhau, các chủ thể có cùng công nhận quy tắc xử sự đó là bắt buộc (pacta sunt servanda).
Xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế hiện nay là sự hội nhập, hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi. Sự hợp tác giữa các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế đã được pháp luật hóa trong các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng. Ý tưởng về sự hợp tác giữa các quốc gia lần đầu tiên được thể hiện trong khoản 3 Điều 4 Hiến chương Liên Hợp quốc, rằng một trong những mục đích của tổ chức là “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn để quốc tế kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, khuyến khích và phát triển dsự tôn trọng các quyền của con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi ngừoi không phjân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Mặc dù Hiến chương LHQ không ghi nhận nghĩa vụ các quốc gia phải hợp tác với nhau như một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, nhưng trong nhiều điều khoản của Hiến chương lại nhắc đến sự hợp tác giữa các quốc gia như là nguyên tắc tồn tại của cộng đồng quốc tế. Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc về các nguyên tắc của Luật quốc tế đã mở rộng nội dung pháp lý của nguyên tắc này, theo đó “các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế không phụ thuộc vào hệ thống chính trị, kinh tế và văn hóa, nhằm mục đích duy trì hoà bình, an ninh quốc tế và góp phần vào việc ổn định kinh tế thế giới, vì sự phồn vinh chung của các dân tộc và hợp tác quốc tế”.
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hòa bình gải quyết các tranh chấp quốc tế này gắn liền với sự hình thành và phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và là hệ quả tất yếu của nguyên tắc này. Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn là khả năng tiềm ẩn phát sinh từ các mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó là hoàn cảnh cụ thể mà trong đó các chủ thể luật quốc tế có những quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn nhau ” không thống nhất được về quyền và lợi ích ” xung đột, mâu thuẫn. Liên hợp quốc cùng với bản Hiến chương của mình lần đầu tiên đã nâng vấn đề giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế lên thành nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia. Khoản 3 điều 2 Hiến chương ghi nhận: “Hội viên Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng phương pháp hòa bình, làm thế nào khỏi nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế cũng như đến công lý”. Cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, với việc tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế, hiện nay cộng đồng quốc tế đang dần thừa nhận vai trò cũng như tính hiệu quả của các biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của các tổ chức quốc tế như: EU, Asean, Liên Hợp quốc,…