I. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay là một chỉnh thể thống nhất, gắn bó hữu cơ bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân ta mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Trung ương.
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền đó.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và cá nhân tiêu biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.
Các đoàn thể chính trị- xã hội tuỳ theo tính chất, tôn chỉ và mục đích đã xác định, vừa vận động đoàn viên, hội viên giúp nhau chăm lo, bảo vệ các lợi ích thiết thực, vừa giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt cho đoàn viên, hội viên, vừa tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội .
Tổ chức của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể (nòng cốt là Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Hội nông dân), các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội khác được pháp luật thừa nhận tuỳ theo tính chất, đặc điểm mà có quy mô tổ chức phù hợp.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã – hội, tổ chức xã hội thông qua tổ chức của Đảng được lập trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể (Ban cán sự đảng, đảng đoàn); thông qua đội ngũ cấp uỷ viên và đảng viên công tác trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và đoàn thể; lãnh đạo bằng nghị quyết của Đảng, bằng công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát… Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt và lãnh đạo trực tiếp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
II. TỔ CHỨC CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Hệ thống tổ chức đảng
Điều lệ Đảng quy định: Hệ thống tổ chức của Đảng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước.
Hệ thống tổ chức Đảng thành lập theo cấp hành chính lãnh thổ là hệ thống cơ bản, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở mỗi cấp và của toàn Đảng. Việc lập tổ chức đảng ở những nơi có đặc điểm riêng theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương (Quy định số 45- QĐ/TW ngày 01-11-2011 về thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương).
Hệ thống tổ chức của Đảng, các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp uỷ các cấp từng bước được sắp xếp, kiện toàn hợp lý và hiệu quả hơn sau khi thực hiện Nghị quyết Trung ương ba, Trung ương bảy (khoá VIII) và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Hội nghị lần thứ 4, lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương khoá X. Nghị quyết Đại hội XI và các Nghị quyết Trung ương 5, Trung ương 6, Trung ương 7 (khoá XI) tiếp tục xem xét quyết định kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay gồm:
– Hệ thống tổ chức đảng bộ, chi bộ (từ cấp Trung ương, cấp tỉnh, huyện, cơ sở, chi bộ);
– Cơ quan lãnh đạo của Đảng các cấp (đại hội, cấp uỷ);
– Cơ quan tham mưu giúp việc cấp uỷ (các ban đảng, đơn vị sự nghiệp của Đảng);
– Tổ chức đảng được lập trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể chính trị xã hội (ban cán sự đảng, đảng đoàn).
1.1. Hệ thống tổ chức các đảng bộ, chi bộ
a) Cấp Trung ương: toàn Đảng có cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương (Bộ Chính trị, Ban Bí thư).
Hiện nay có 67 đảng bộ trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương :
– 63 Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (theo cấp hành chính lãnh thổ, có chính quyền cùng cấp).
– 04 Đảng bộ khác trực thuộc Trung ương là Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương, Đảng bộ khối Doanh nghiệp Trung ương; Đảng bộ Quân đội; Đảng bộ Công an Trung ương.
(Trước năm 2006 có 75 đầu mối, sau khi thực hiện NQTW 4 khoá X giảm được 08 đầu mối).
b) Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương có các đảng bộ trực thuộc gồm:
– Đảng bộ huyện, quận, thị, thành phố trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ (theo hành chính lãnh thổ).
– Đảng bộ cấp trên trực tiếp của cơ sở (tương đương cấp huyện) trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương.
– Một số tổ chức cơ sở đảng có vị trí quan trọng, đông đảng viên, nhiều tổ chức đảng trực thuộc, được giao một số quyền của cấp trên cơ sở.
– Các đảng bộ, chi bộ cơ sở có vị trí quan trọng trực thuộc tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ khối Trung ương, Quân uỷ Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương.
c) Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có các tổ chức cơ sở đảng trực thuộc gồm:
– Các đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn (theo cấp hành chính lãnh thổ).
– Các đảng bộ cơ sở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, lực lượng vũ trang trực thuộc huyện ủy, quận ủy, thị ủy và tương đương.
d) Cấp cơ sở xã, phường, thị trấn và các loại hình tổ chức cơ sở đảng ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp khác có các tổ chức đảng trực thuộc gồm:
– Các đảng bộ bộ phận (nơi có đông đảng viên);
– Các chi bộ trực thuộc;
– Các tổ đảng (ở nơi thành lập chi bộ, có đông đảng viên).
1.2. Hệ thống cấp ủy các cấp
Gắn với hệ thống tổ chức đảng là hệ thống cấp uỷ đảng các cấp. Cấp uỷ các cấp là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, chấp hành giữa hai kỳ đại hội của đảng bộ các cấp.
Điều lệ Đảng quy định: Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, ban chấp hành chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
Theo quy định của Điều lệ Đảng khóa X, khóa XI và Quy định thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI thì nhiệm kỳ đại hội của tổ chức cơ sở đảng và của cấp ủy cơ sở trở lên là 5 năm. Nhiệm kỳ của chi bộ, chi ủy trực thuộc đảng uỷ cơ sở là 5 năm /2 lần (quy định này được áp dụng từ nhiệm kỳ Đại hội X).
Số lượng Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương do Đại hội Đảng toàn quốc quyết định, số lượng cấp uỷ viên mỗi cấp do đại hội cấp đó quyết định trên cơ sở hướng dẫn của Trung ương. Hệ thống cấp uỷ đảng do đại hội các cấp bầu, trường hợp đặc biệt hoặc thành lập mới, chia tách, hợp nhất, sáp nhập giữa 2 kỳ đại hội thì do cấp uỷ cấp trên trực tiếp chỉ định.
1.2.1. Về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
a) Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất trong toàn Đảng giữa 2 kỳ đại hội; số lượng Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương do Đại hội Đảng toàn quốc thảo luận, quyết định.
Ban Chấp hành trung ương có nhiệm vụ, quyền hạn:
– Tổ chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đại hội; quyết định những chủ trương, chính sách về đối nội, đối ngoại, công tác quần chúng và công tác xây dựng đảng; chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng nhiệm kỳ tiếp theo, Đại hội đại biểu toàn quốc bất thường (nếu có).
Ban Chấp hành Trung ương căn cứ tình hình thực tế có thể chỉ đạo thí điểm một số chủ trương mới chưa được quy định trong Điều lệ Đảng.
– Ban Chấp hành Trung ương họp thường lệ sáu tháng một lần; họp bất thường khi cần.
– Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị; bầu Tổng Bí thư trong số Uỷ viên Bộ Chính trị;
– Thành lập Ban Bí thư gồm Tổng Bí thư, một số Ủy viên Bộ Chính trị do Bộ Chính trị phân công và một số Ủy viên Ban Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương;
– Bầu Uỷ ban Kiểm tra Trung ương; bầu Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương trong số Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Số lượng Uỷ viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư và Uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Trung ương do Ban Chấp hành Trung ương quyết định.
b) Bộ Chính trị do Ban Chấp hành Trung ương bầu ngay sau Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Điều lệ Đảng là:
– Lãnh đạo và kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương; quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách, tổ chức, cán bộ;
– Quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; báo cáo công việc đã làm trước hội nghị Ban Chấp hành Trung ương hoặc theo yêu cầu của Ban Chấp hành Trung ương.
c) Ban Bí thư lãnh đạo công việc hằng ngày của Đảng: chỉ đạo công tác xây dựng đảng và công tác quần chúng; kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; quyết định một số vấn đề về tổ chức, cán bộ và một số vấn đề khác theo sự phân công của Ban Chấp hành Trung ương; chỉ đạo hoặc kiểm tra việc chuẩn bị các vấn đề đưa ra Bộ Chính trị thảo luận và quyết định.
1.2.2. Về cơ quan lãnh đạo ở địa phương cấp tỉnh, cấp huyện
a) Nhiệm vụ của ban chấp hành và hình thức sinh hoạt của ban chấp hành:
– Cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi tắt là tỉnh ủy, thành ủy), cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi tắt là huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy) là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ tỉnh, đảng bộ huyện giữa 2 kỳ đại hội, có nhiệm vụ: lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đại biểu; nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp trên.
– Hội nghị tỉnh ủy, thành ủy, huyện ủy, quận ủy, thị ủy do ban thường vụ triệu tập thường lệ ba tháng một lần; họp bất thường khi cần.
Hội nghị bầu ban thường vụ; bầu bí thư và phó bí thư trong số ủy viên thường vụ; bầu ủy ban kiểm tra; bầu chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trong số ủy viên ủy ban kiểm tra.
Số lượng ủy viên ban thường vụ và ủy viên ủy ban kiểm tra do cấp ủy quyết định theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương.
b) Nhiệm vụ của ban thường vụ; thường trực cấp ủy
– Ban thường vụ lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của đại hội đại biểu, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cùng cấp và cấp trên; quyết định những vấn đề về chủ trương, tổ chức, cán bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp ủy.
– Thường trực cấp ủy gồm bí thư, các phó bí thư, chỉ đạo kiểm tra thực hiện nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy, của ban thường vụ và cấp ủy cấp trên; giải quyết công việc hằng ngày của đảng bộ; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của ban thường vụ.
1.3. Ban cán sự đảng, đảng đoàn
Thực hiện theo Điều 42, Điều 43 Điều lệ Đảng. Ban Cán sự đảng được lập ở một số cơ quan hành pháp, tư pháp cấp Trung ương, cấp tỉnh. Đảng đoàn được lập ở cơ quan lãnh đạo Quốc hội, hội đồng nhân dân cấp tỉnh (các cơ quan này lập ra do bầu cử) và một số tổ chức chính trị – xã hội cấp Trung ương, cấp tỉnh.
1.4. Hệ thống cơ quan tham mưu giúp việc, đơn vị sự nghiệp của cấp uỷ
Theo quy định của Điều lệ Đảng “Cấp uỷ mỗi cấp lập các cơ quan tham mưu giúp việc theo hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương”.
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và khi thực hiện nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) và NQTW 4 khoá X vừa qua, hệ thống cơ quan tham mưu giúp việc được tổ chức lại gọn hơn đến nay đầu mối tổ chức các ban và cơ quan Đảng đã được tinh giản đáng kể so với thời kỳ trước đổi mới. Ở cấp Trung ương, từ 24 đầu mối (16 ban, văn phòng và 8 đơn vị sự nghiệp) tổ chức lại thành 6 ban (Ban Tổ chức TW, Ban Tuyên giáo TW, Ban Dân vận TW, Uỷ ban Kiểm tra TW, Ban Đối ngoại TW, Văn phòng TW) và 4 đơn vị sự nghiệp (Báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh). Ở cấp tỉnh từ 12 – 15 đầu mối tổ chức lại thành 7 đầu mối (5 ban và 2 đơn vị sự nghiệp). Ở cấp huyện còn từ 5 – 6 đầu mối (5 ban và trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện).
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã quyết định thành lập lại Ban Nội chính Trung ương và ban nội chính cấp tỉnh. Hội Nghị Trung ương 6 quyết định thành lập Ban Kinh tế Trung ương.
2. Tổ chức nhà nước
Tổ chức bộ máy Nhà nước bao gồm: Quốc hội (cơ quan lập pháp) và hội đồng nhân dân các cấp; Chủ tịch nước (là nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng an ninh và thực thi các nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp); Chính phủ và uỷ ban nhân dân các cấp (cơ quan hành chính nhà nước), Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân các cấp (cơ quan tư pháp).
2.1. Tổ chức của Quốc hội
Quốc hội do dân bầu, thực hiện nhiệm kỳ đại biểu 5 năm. Quốc hội lập ra các Uỷ ban, các Ban có bộ phận chuyên trách ở Trung ương; ở địa phương có các đoàn đại biểu, chuyên trách địa phương.
Quốc hội có sự đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, tăng cường việc xây dựng và ban hành các bộ luật, luật, pháp lệnh, thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, quan hệ phối hợp giữa Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội với Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hình thành cơ chế tiếp xúc giữa đại biểu Quốc hội với cử tri, dân chủ trong sinh hoạt Quốc hội, tăng cường chất vấn công khai tại Quốc hội, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng thông qua Đảng đoàn Quốc hội.
2.2. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Chủ tịch nước là đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình (theo Chương VII, Hiến pháp 1992) và tổ chức bộ máy chuyên trách giúp việc theo quy định của pháp luật.
2.3. Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước
Tổ chức bộ máy của Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước đã tinh giản hơn so với năm 1986. Ở cấp Trung ương, trước 1/8/2007 tổng số đầu mối các cơ quan thuộc Chính phủ đã giảm từ 76 xuống còn 38 (26 bộ, cơ quan ngang bộ và 12 cơ quan thuộc chính phủ), hiện nay còn 22 đầu mối (gồm 18 bộ, 4 cơ quan ngang bộ). Ở cấp tỉnh từ 35 – 40 đầu mối nay còn 19 – 25. Ở cấp huyện từ 20 – 25 đầu mối, nay còn 8 – 12 đầu mối.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá X, cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ được sắp xếp cho phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ mới, tinh gọn hơn, tổng hợp hơn. Chính phủ, cơ quan hành chính nhà nước đã có sự đổi mới về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy gắn với quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, làm rõ hơn chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ và các Bộ; phân biệt rõ hơn quản lý hành chính nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đã tiến hành cải cách thể chế, tập trung cải cách thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh vực liên quan đến sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân.
2.4. Các cơ quan tư pháp
Hệ thống tổ chức của toà án bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, các toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh; các toà án quân sự; các toà án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định hình thành toà án đặc biệt.
Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các viện kiểm sát quân sự.
Hệ thống các toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án đã được kiện toàn và đổi mới một bước về tổ chức và hoạt động, về phối hợp đấu tranh phòng chống tội phạm, giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, lao động và các vụ án khác, góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội
Các tổ chức bao gồm Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở cùng với các tổ chức quần chúng khác đã từng bước đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục một bước tình trạng hành chính hoá, coi trọng nhiệm vụ tập hợp và giáo dục vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần xây dựng Đảng, chính quyền, đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất xoá đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Những ưu điểm nổi bật trong việc đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta sau thời gian qua là:
Hệ thống các cơ quan, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn. Số lượng các ban đảng giảm, từng bước tinh gọn hơn, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi tổ chức đã được điều chỉnh, bổ sung phù hợp hơn, giảm bớt trùng lắp, chồng chéo. Tổ chức các cơ quan của Quốc hội được kiện toàn, hoạt động của Quốc hội đã có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao hơn. Tổ chức bộ, ngành trực thuộc Chính phủ giảm, chức năng, nhiệm vụ được bổ sung, điều chỉnh; hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Tổ chức của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân các cấp đã được từng bước triển khai theo yêu cầu cải cách tư pháp. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội từ Trung ương tới cơ sở được kiện toàn, phương thức hoạt động có đổi mới. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị được nâng lên một bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ. Những tiến bộ và kết quả đó đã góp phần vào sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước trong những năm qua.
Hạn chế, khuyết điểm:
Chất lượng tham mưu, đề xuất của các cơ quan, tổ chức đảng với Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Phương thức lãnh đạo của Đảng chậm được đổi mới. Một số vấn đề về thẩm quyền lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của cấp uỷ, ban thường vụ và thường trực cấp uỷ Đảng các cấp, trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu cấp uỷ chưa đủ rõ nên còn vướng mắc trong thực tiễn và khó xem xét trách nhiệm cá nhân. Nguyên tắc về tổ chức đảng theo ngành và theo lãnh thổ nhận thức còn khác nhau. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy một số cơ quan của Quốc hội chưa thật hợp lý, vai trò của các uỷ ban, Hội đồng Dân tộc và của đại biểu chưa được phát huy đầy đủ. Một số bộ, ngành cơ cấu tổ chức còn cồng kềnh, tăng cấp trung gian, chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn bị buông lỏng; một số yêu cầu mới liên quan đến phát triển kinh tế, ổn định xã hội chưa được giải quyết kịp thời. Chưa phân biệt rõ tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn để có cơ chế quản lý, điều hành phù hợp. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp; chất lượng hoạt động truy tố, xét xử còn hạn chế. Việc đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội chưa mạnh; chất lượng công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng còn hạn chế; vai trò đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên, đoàn viên chưa được phát huy đầy đủ. Hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn nhiều nơi còn lúng túng, hiệu quả thấp, chưa đủ sức giải quyết được những vấn đề phức tạp nảy sinh. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa thật gắn kết với điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Một bộ phận cán bộ, công chức không đáp ứng được yêu cầu nhưng chưa có cơ chế để thay thế kịp thời. Chính sách đối với cán bộ, công chức còn nhiều bất cập, nhất là về tiền lương, nhà ở. Chưa xác định được căn cứ khoa học để giao biên chế cho phù hợp, công tác quản lý biên chế nhìn chung còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ, công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát chưa thường xuyên, hiệu quả kém. Tinh giản biên chế đạt kết quả thấp, không thực hiện được mục tiêu đề ra.
Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, khuyết điểm:
– Hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế là một quá trình phức tạp, phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Đây là vấn đề rất quan trọng, nhạy cảm nhưng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn còn hạn chế; nhiều vấn đề về phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền, về tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; về quyền làm chủ của nhân dân còn chưa được làm sáng tỏ, chưa cung cấp được cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
– Nhiều quan điểm, nguyên tắc đúng đắn về hoàn thiện hệ thống chính trị mà Đảng đã đề ra nhưng nhận thức vẫn khác nhau, thực hiện không mạnh mẽ, kiên trì, nhất quán; chưa thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, kịp thời sơ kết, tổng kết nên kết quả đạt được thấp. Một số chủ trương của Đảng khi tổ chức thực hiện trong thực tiễn không phù hợp nhưng chậm được phát hiện, sửa đổi kịp thời.
– Việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị thực hiện không đồng bộ giữa thay đổi tổ chức bộ máy với bổ sung, hoàn thiện hệ thống luật pháp, các văn bản quy phạm pháp luật, tạo nên những vướng mắc khi vận hành; tập trung nhiều vào việc thay đổi tổ chức bộ máy mà chưa đồng bộ với sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan và nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tổ chức bộ máy thay đổi nhanh, dễ dãi; lập ra nhiều tổ chức mới, ban chỉ đạo mới trong khi các tổ chức đã có không làm hết chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của mình.
– Chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan; thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức ở từng chức danh, từng vị trí công tác trong hệ thống chính trị chưa được xác định rõ ràng, đầy đủ. Do đó, thiếu căn cứ để đánh giá đúng đắn chất lượng, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của từng cơ quan, từng chức danh cán bộ, công chức, nhất là của người đứng đầu và làm cơ sở cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo chức danh.
– Biên chế cán bộ, công chức, viên chức tăng lên là do: thực hiện Nghị quyết của Trung ương chưa nghiêm, thiếu đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy chưa thực sự tinh gọn, giảm được đầu mối ở cấp trên thì tăng thêm tổ chức bên trong và tổ chức cấp dưới; chưa kiên quyết thực hiện kiêm nhiệm ở một số chức danh giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; chưa có cơ chế quản lý biên chế thống nhất cho cả hệ thống chính trị; chuyển cán bộ cấp xã thành công chức với diện rộng (có xu hướng tăng lên); chậm xã hội hoá dịch vụ công và chuyển đơn vị dịch vụ sự nghiệp công lập sang cơ chế tự chủ; phân cấp cho lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương quyền quyết định biên chế sự nghiệp ở đơn vị thuộc quyền quản lý; chưa có cơ chế để kịp thời thay thế những cán bộ, công chức không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
– Cơ chế chính sách, nhất là chính sách tiền lương, nhà ở chưa tạo động lực cho cán bộ, công chức toàn tâm, toàn ý với công việc, chưa thu hút được người giỏi về công tác ở các cơ quan trong hệ thống chính trị.
– Khi quyết định một số vấn đề về tổ chức, cán bộ của hệ thống chính trị, cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước chưa có đủ thông tin, thảo luận chưa kỹ, có biểu hiện nể nang nên những quyết định đó chưa có sự đồng thuận cao hoặc phải điều chỉnh.
III. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỪ TRUNG ƯƠNG ĐẾN CƠ SỞ
Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI đã thảo luận và quyết định về quan điểm, mục tiêu và giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở như sau:
1– Quan điểm
1.1- Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị phải bám sát, cụ thể hoá, thể chế hoá các quan điểm của Cương lĩnh, Điều lệ, văn kiện Đại hội XI của Đảng, đồng bộ với nội dung sửa đổi Hiến pháp 1992; bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
1.2- Đổi mới, hoàn thiện đồng bộ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng bộ với đổi mới thể chế kinh tế, phù hợp với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu.
1.3- Về tổ chức bộ máy, không nhất thiết ở Trung ương có tổ chức nào thì ở địa phương cũng có tổ chức đó. Căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy định khung của Trung ương, địa phương có thể lập (hoặc không lập) tổ chức sau khi được sự đồng ý của cấp trên có thẩm quyền. Về biên chế, cần tăng cường kiêm nhiệm một số chức danh trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
1.4- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị cần thực hiện mạnh mẽ với quyết tâm chính trị cao. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi thì kiên quyết thực hiện. Những vấn đề chưa đủ rõ thì khẩn trương nghiên cứu, làm thí điểm và tổng kết thực tiễn để làm rõ, có bước đi thích hợp, không nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Những chủ trương đã thực hiện, nhưng thực tiễn khẳng định là không phù hợp thì điều chỉnh, sửa đổi ngay.
2- Mục tiêu
Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm xây dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và có tiền lương, thu nhập bảo đảm cuộc sống.
3- Nhiệm vụ, giải pháp
3.1- Đối với tổ chức đảng
– Cơ quan lãnh đạo của Đảng: Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa X. Bổ sung, hoàn thiện Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị. Ban Bí thư, nhiệm vụ, quyền hạn của đảng đoàn, ban cán sự đảng và cấp uỷ đảng các cấp theo hướng tăng thẩm quyền, trách nhiệm, mở rộng dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, các chức danh lãnh đạo cấp cao của Đảng và cấp uỷ các cấp có chất lượng. Bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện các quy chế, quy định về quy trình công tác của các cấp ủy, tổ chức đảng, về quan hệ lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới cách ra nghị quyết, tập trung vào lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết thực hiện nghị quyết của Đảng. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã, phường, thị trấn cho phù hợp với thực tế và yêu cầu, nhiệm vụ mới; sơ kết việc thành lập chi bộ cơ quan xã, phường, thị trấn; thống nhất mô hình tổ chức đảng ở cơ sở phù hợp với tổ chức dân cư dưới cấp xã. Tiếp tục nghiên cứu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các đảng uỷ khối ở Trung ương, địa phương, Đảng uỷ Ngoài nước; mô hình tổ chức đảng ở các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước.
– Các cơ quan tham mưu giúp việc, đơn vị sự nghiệp của Đảng ở Trung ương cơ bản giữ ổn định về tổ chức. Chuyển Học viện Hành chính từ Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh về Bộ Nội vụ và tổ chức lại cho hợp lý; điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh để phù hợp với vị trí, chức năng là cơ quan trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương. Thực hiện chủ trương không nhất thiết ở Trung ương có ban đảng, đảng bộ nào thì ở địa phương cũng phải có ban đảng, đảng bộ đó; căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy định khung của Trung ương, cấp uỷ địa phương có thể lập (hoặc không lập) tổ chức sau khi được sự đồng ý của cấp ủy cấp trên có thẩm quyền. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế các cơ quan tham mưu giúp việc, đơn vị sự nghiệp của cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện. Xem xét việc thành lập ban kinh tế ở một số tỉnh uỷ, thành uỷ.
2- Đối với Nhà nước
– Quốc hội
Trước mắt, giữ ổn định Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội. Nghiên cứu bổ sung một số thẩm quyền cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện nhiệm vụ cơ quan thường trực giữa 2 kỳ họp Quốc hội; bổ sung thêm thẩm quyền, trách nhiệm của Hội đồng dân tộc, các uỷ ban, điều chỉnh số lượng lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của từng cơ quan. Kiện toàn bộ máy giúp việc của Văn phòng Quốc hội theo các khối công việc bảo đảm tinh gọn, hiệu quả, gắn với hoạt động của Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội. Nghiên cứu việc chuyển một số ban của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thành ban của Quốc hội và việc lập chức danh Tổng thư ký của Quốc hội. Từng bước tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách trên cơ sở bảo đảm tính đại diện, tính chuyên nghiệp, nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng đại biểu; tăng đại biểu chuyên trách làm việc ở Hội đồng dân tộc và các uỷ ban là các chuyên gia, am hiểu sâu các lĩnh vực chuyên môn. Xây dựng cơ chế gắn trách nhiệm của đại biểu với cử tri, trước hết là cử tri tại nơi bầu cử. Tiếp tục đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
– Chủ tịch nước
Hoàn thiện chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp và pháp luật nhằm xác định rõ và cụ thể hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nghiên cứu làm rõ quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với Chủ tịch nước.
Kiện toàn tổ chức bộ máy của Văn phòng Chủ tịch nước đáp ứng yêu cầu tham mưu, giúp việc Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước trong tình hình mới theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
– Chính phủ
Tiếp tục đổi mới hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, quản lý thống nhất, thông suốt, tinh gọn, hợp lý; nâng cao hiệu lực, hiệu quả các cơ quan nhà nước, khắc phục tình trạng buông lỏng trên một số lĩnh vực. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, chế độ công vụ, công chức.
Trước mắt, giữ cơ bản ổn định tổ chức của Chính phủ, tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước. Phát huy vai trò, trách nhiệm của tập thể Chính phủ, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ. Điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành tập trung vào quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, khắc phục những chồng chéo hoặc bỏ trống về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý; làm rõ mối quan hệ phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; bảo đảm nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Hoàn thiện cơ chế phân cấp theo hướng tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, đồng thời bảo đảm sự quản lý thống nhất của Trung ương. Chuyển những nhiệm vụ mà các cơ quan nhà nước không cần thiết phải thực hiện để giao cho các tổ chức xã hội đảm nhận.
Xem xét, điều chỉnh một số tổ chức không cần thiết, chưa phù hợp bên trong một số bộ, việc thành lập một số tổng cục; khắc phục những hạn chế khi tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; nghiên cứu việc thành lập tổ chức thực hiện chức năng chủ sở hữu, quản lý, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Nghiên cứu phạm vi quản lý đa ngành, đa lĩnh vực của một số bộ, việc thành lập cơ quan quản lý chuyên ngành về năng lượng và tài nguyên nước phù hợp với trình độ, năng lực quản lý và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Đổi mới mạnh mẽ tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công để cung ứng tốt hơn các dịch vụ cơ bản thiết yếu cho người dân, nhất là các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo. Nhà nước tăng cường đầu tư cho các đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn khó khăn. Tiếp tục đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp công lập gắn với tăng cường chức năng quản lý của Nhà nước. Đẩy mạnh xã hội hoá, khuyến khích thành lập các tổ chức cung ứng dịch vụ công thuộc các thành phần ngoài Nhà nước trên cơ sở các định mức, tiêu chuẩn, các quy định của pháp luật và sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước và nhân dân.
– Chính quyền địa phương
Sớm hoàn thành quy hoạch để bảo đảm cơ bản giữ ổn định số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã. Hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng quy định khung các cơ quan chuyên môn giúp việc cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu chí và quy định khung của Chính phủ, địa phương có thể lập (hoặc không lập) cơ quan, tổ chức đặc thù sau khi được sự đồng ý của cấp có thẩm quyền. Rà soát, điều chỉnh, khắc phục những chồng chéo, không rõ về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, giữa uỷ ban nhân dân cấp huyện với các sở, ngành cấp tỉnh. Nghiên cứu về tổ chức chính quyền địa phương (có phân biệt tổ chức chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn), giao Bộ Chính trị chỉ đạo thực hiện thí điểm mô hình chính quyền đô thị. Hướng dẫn tổ chức đảng và chính quyền phù hợp với các địa phương có tính đặc thù, như đặc khu kinh tế, hải đảo…
Sớm tổng kết việc thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường để có chủ trương thực hiện trong thời gian tới. Thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp; bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch uỷ ban nhân dân ở cấp xã, cấp huyện đối với những nơi có đủ điều kiện. Thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt không phải là người địa phương.
Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới. Quy định dưới xã, phường, thị trấn là thôn, tổ dân phố và tương đương (có quy mô phù hợp với địa bàn đô thị, nông thôn, miền núi), chủ yếu hoạt động theo hình thức tự quản của cộng đồng dân cư, hạn chế tối đa việc sử dụng kinh phí từ ngân sách. Thực hiện khoán kinh phí hoạt động cho các tổ chức chính trị – xã hội ở cấp xã, thôn, tổ dân phố và tương đương bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
– Toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của cải cách tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với các khiếu kiện hành chính, giải quyết tranh chấp về đất đai; đổi mới cơ chế giám đốc thẩm, tái thẩm. Tổ chức hệ thống viện kiểm sát nhân dân phù hợp với hệ thống tổ chức của toà án nhân dân. Bảo đảm các điều kiện để viện kiểm sát thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp. Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức của toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp; đổi mới và kiện toàn các tổ chức bổ trợ tư pháp.
4- Đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội
Tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội theo hướng tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, không chồng chéo. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế tài chính đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động; không “hành chính hoá” để gần dân, sát dân hơn. Thực hiện có hiệu quả quy chế phối hợp, quy định về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội, cơ chế để nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền. Quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của các hội theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm kinh phí hoạt động và tuân thủ pháp luật. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước về quản lý tổ chức và hoạt động hội phù hợp với tình hình mới.
5- Về biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
– Về quản lý biên chế và tinh giản biên chế
Quy định nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh trong các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội để giao và quản lý biên chế cán bộ, công chức, xác định số lượng viên chức.
Nghiên cứu cơ chế quản lý biên chế thống nhất của cả hệ thống chính trị. Định kỳ hằng năm Bộ Chính trị nghe và cho ý kiến về quản lý biên chế và định hướng bố trí biên chế của cả hệ thống chính trị. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế giao, quản lý và sử dụng biên chế. Thực hiện chế độ kiêm nhiệm các chức danh phù hợp và tiếp tục thí điểm khoán kinh phí hành chính để khuyến khích giảm biên chế. Thực hiện đúng quy định về số lượng cấp phó lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Tiếp tục thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, từ nay đến năm 2016 cơ bản không tăng tổng biên chế của cả hệ thống chính trị (trừ trường hợp lập thêm tổ chức hoặc được giao nhiệm vụ mới). Cơ cấu lại và chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, có chính sách và biện pháp đồng bộ để thay thế những người không đáp ứng được yêu cầu. Trường hợp có yêu cầu tăng thêm biên chế phải có đề án được các cơ quan chức năng thẩm định chặt chẽ.
Đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập, xã hội hoá dịch vụ công, từng bước giảm chi lương viên chức từ ngân sách nhà nước; thống nhất quản lý chặt chẽ việc thành lập mới các đơn vị sự nghiệp công lập và số lượng viên chức ở các đơn vị sự nghiệp công lập.
Sửa đổi quy định về cán bộ, công chức cấp xã theo hướng: Từ nhiệm kỳ 2015 – 2020, cán bộ cấp xã hoạt động theo nhiệm kỳ, được hưởng chế độ theo quy định của Nhà nước; hết nhiệm kỳ không được bầu vào chức danh mới, nếu đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì được bố trí công tác khác theo quy định, nếu không đủ tiêu chuẩn, điều kiện thì được nghỉ công tác, hưởng chế độ trợ cấp một lần và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Công chức cấp xã là người đủ tiêu chuần, điều kiện làm việc theo các chức danh quy định (có thể là công chức cấp huyện được điều động về làm việc tại xã). Tăng cường kiêm nhiệm công việc, khoán quỹ phụ cấp để giảm dần số lượng những người hoạt động không chuyên trách gắn với việc tăng thu nhập của cán bộ, công chức cấp xã. Mỗi thôn, tổ dân phố và tương đương có một số chức danh (không quá 3 người) được hưởng phụ cấp hằng tháng từ ngân sách nhà nước; tăng cường quyền làm chủ của nhân dân gắn với đẩy mạnh thực hiện các hình thức tự quản và xã hội hoá ở cộng đồng dân cư.
– Về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, kỹ năng công tác; kết hợp việc đào tạo, bồi dưỡng với thực hiện luân chuyển để rèn luyện trong thực tiễn. Xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu cấp chiến lược ở các cơ quan của Đảng, Nhà nước. Gắn chính sách tinh giản biên chế với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Có chính sách phù hợp với đội ngũ chuyên gia, chính sách thu hút người tài vào làm việc trong cơ quan của hệ thống chính trị; thu hút cán bộ trẻ, có trình độ đại học về công tác ở cơ sở; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng quân nhân hoàn thành nghĩa vụ quân sự, thanh niên ưu tú ở địa phương bổ sung cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Thực hiện thi tuyển các chức danh quản lý ở Trung ương (đến cấp vụ trưởng) và ở địa phương (đến cấp giám đốc sở) và tương đương. Tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng thi tuyển công chức, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh; quan tâm đào tạo cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc. Sửa đổi các quy định về tiêu chuẩn bằng cấp đối với cán bộ, công chức theo hướng thiết thực, tránh hình thức và phù hợp với thực tế./.