Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi, vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Ngay ở trong một nước thể chế nguyên thủ quốc gia cũng có những thay đổi theo từng thời kỳ nhất định. . Để hiểu rõ vị trí, tính chất pháp lý, chức năng thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia cần nghiên cứu chế định nguyên thủ quốc gia gắn liền với lịch sử pháp luật Việt Nam dựa trên bốn mốc quan trọng của nền lập pháp nước ta, đó là Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992.
1. Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1946 là Hiến pháp đầu tiên mở đầu lịch sử lập hiến Việt Nam được Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 thông qua. Hiến pháp 1946 ra đời đánh dấu sự thay đổi căn bản các thể chế chính trị ở Việt Nam sau Cách mạng Tháng tám năm 1945.
Hiến pháp 1946 gọi nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước. Theo quy định của hiến pháp Chủ tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946 do Nghị viện (Quốc hội) bầu ra và phải được 2/3 tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Chỉ tịch nước được bầu trong 5 năm và có thể bầu lại. Nội dung này được thể hiện tại điều 45 – Hiến pháp 1946.
Chủ tịch nước được Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền hạn rất lớn: Thay mặt cho nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc; chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân; ký sắc lệnh bổ nhiệm thủ tướng, nhân viên nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; chủ tọa Hội đồng Chính phủ; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp ước với các nước; phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước; tuyên chiến hay đình chiến khi Nghị viện không họp được.
Vai trò của Chủ tịch nước còn được đề cao tại điều 36 – Hiến pháp 1946 khi có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận những luật đã được Nghị viện biểu quyết. Quy định này của Hiến pháp nhằm tạo ra cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các quyền lực trong cơ cấu quyền lực để tránh sự lạm quyền của Nghị viện và đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và tính khả thi của các đạo luật. Với cương vị là người đứng đầu cơ quan hành pháp – cơ quan trực tiếp thự hiện pháp luật thì việc Hiến pháp quy định quyền này cho Chủ tịch nước thực sự là một tư tưởng mềm dẻo về sự phân công quyền lực. Tuy nhiên việc quy định này chỉ phù hợp trong điều kiện lúc đó.
2. Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1959.
Hiến pháp 1959 được Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 thông qua trong bối cảnh lịch sử cách mạng Việt Nam chuyển sang tình thế mới. Nhà nước đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Hiến pháp 1959 được coi là bản Hiến pháp của thời kỳ cách mạng mới, bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở nước ta.
Hiến pháp 1959 ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia tại chương V gồm 10 điều (từ điều 61 đến điều 70). Xét về hình thức, việc ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia thành một chương riêng trong Hiến pháp chứng tỏ Hiến pháp 1959 có sự đổi mới rõ rệt so với Hiến pháp 1946. Nguyên thủ quốc gia tại Hiến pháp 1959 vẫn được coi là Chủ tịch nước. Hiến pháp 1959 coi Chủ tịch nước và Chính phủ là hai chế định khác nhau, lúc này Chủ tịch nước không còn là người đứng đầu Chính phủ nữa mà chỉ là người thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại.
Tuy nhiên, trong Hiến pháp 1959 quyền hạn của Chủ tịch nước vẫn rất lớn như thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ chủ tịch Hội đồng quốc phòng (điều 65); Chủ tịch nước khi xét thấy có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng chính phủ (điều 66); Chủ tịch nước khi xét thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ hội nghị chính trị đặc biệt (điều 67).
Hiến pháp 1959 với mục đích đề cao vai trò của tập thể đã chuyển một số quyền hạn của Chủ tịch nước được ghi nhận tại Hiến pháp 1946 sang cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, bên cạnh đó lại quy định những quyền hạn khác của Chủ tịch nước mang tính chất thủ tục như công bố luật, pháp lệnh, công bố các lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm (điều 63). Nhìn chung, Hiếp pháp 1959 không quy định Chủ tịch nước có quyền giải quyết những vấn đề cụ thể mà Chủ tịch nước chỉ có quyền công bố các quyết định được thông qua bởi cơ quan khác.
Tại điều 62 Hiếp pháp 1959 quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra, có nhiệm kỳ bằng nhiệm kỳ của Quốc hội. Đây là điểm khác biệt của Hiến pháp 1959 với Hiếp pháp 1946. Trong Hiến pháp 1959, chế định Chủ tịch nước còn hạn chế bởi việc không quy định ứng cử viên Chủ tịch nước phải là đại biểu Quốc hội, được chọn trong số các nghị sỹ của Nghị viện nhân dân như Hiến pháp 1946. Với việc quy định và ghi nhận chế định Chủ tịch nước, Hiến pháp 1959 thực sự là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp xã hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao động, do dân lao động và vì nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân.
3. Chế định nguyên thủ quốc gia quy định trong Hiến pháp 1980.
Hiến pháp 1980 được Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ 7 thông qua đánh dấu một bước quan trọng đối với sự phát triển các thể chế nhà nước ở Việt Nam.
Hiến pháp 1980 đã “ sáp nhập “ chế định Ủy ban thường vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nước thành chế định Hội đồng nhà nước.Như vậy, chế định nguyên thủ quốc gia là một cá nhân đã được thay đổi thành Nguyên thủ quốc gia tập thể. Việc quy định này đã thể hiện xu hướng tập thể hoá trách nhiệm, tập trung quyền lực nhà nước. So với hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 quy định Hội đồng nhà nước không chỉ đứng đầu nhà nước mà còn có những nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thường trực Quốc hội: triệu tập và dự kiến chương trình các kỳ họp Quốc hội, điều hoà phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và Ủy ban của Quốc hội; giữa hai kỳ họp của Quốc hội thay mặt quốc hội giám sát hoạt động của Hội đồng bộ trưởng, toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Tuy nhiên, Hiến pháp 1980 quy định thẩm quyền của Hội đồng nhà nước tương đương với Ủy ban thường vụ Quốc hội và thẩm quyền của Chủ tịch đã thể hiện một số nhược điểm như giữa hai kỳ họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng nhà nước rất lớn nhưng trong kỳ họp của Quốc hội thì quyền hạn của Hội đồng nhà nước hầu như không được thể hiện đồng thời làm nảy sinh vấn đề trùng lặp, chồng chéo liên quan đến quyền lập pháp của Quốc hội. Hơn nữa, trong khi giải quyết công việc nhà nước, mọi vấn đề đều phải đưa ra tập thể bàn bạc nên tiến trình giải quyết công việc chậm chạp, chế độ trách nhiệm lại không rõ ràng.
4. Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1992.
Hiến pháp 1992 được Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 11 thông qua là một bước phát triển quan trọng trong việc xây dựng Hiến pháp.
Dựa trên quan điểm phân biệt rành mạch giữa quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, Hiến pháp 1992 đã có sự phân biệt giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với chế định nguyên thủ quốc gia từ đó tách chế định Hội đồng nhà nước của Hiến pháp 1980 thành hai chế định độc lập: Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chủ tịch nước với vai trò to lớn vừa là nhân vật chính trị, vừa mang nhiều thuộc tính của cơ quan quản lý nhà nước.
Ở Hiến pháp 1992, quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định không rộng như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 nhưng lại thể hiện rất phù hợp với điều kiện đổi mới của Nhà nước. Về vị trí pháp lý của Chủ tịch nước, Hiến pháp 1959 quy định một cách khái quát thì ở Hiến pháp 1992 quy định một cách cụ thể, đầy đủ, rõ ràng hơn: Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.. Nhiệm vụ quyền hạn của Chủ tịch nước quy định trong Hiến pháp 1992 rộng hơn so với quyền hạn của Hội đồng Nhà nước trong Hiến pháp 1980. Ngoài những thẩm quyền được ghi nhận trong Hiến pháp 1959, 1980 như cho nhập thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng… Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm miễn nhiệm và cách chức Phó chánh án toà án nhân dân tối cao, thẩm phán toà án nhân dân tối cao, Phó viện trưởng và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hơn nữa, Chủ tịch nước còn có thẩm quyền ban bố các lệnh, các văn bản pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành.
Về trách nhiệm của Chủ tịch nước, Hiến pháp 1992 cũng quy định chặt chẽ hơn các hiến pháp trước đó. Nếu như Hiến pháp 1946 Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào trừ khi phản bội tổ quốc, Hiến pháp 1959 không có quy định nào quy định trực tiếp nhiệm vụ của Chủ tịch nước thì đến Hiến pháp 1992, Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội (điều 102). Hiến pháp 1992 quy định cụ thể quyền ban hành văn bản của Chủ tịch nước, vấn đề này Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 không đề cập tới .Về mặt tổ chức, Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội và bị Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm.
Như vậy qua nghiên cứu chế định nguyên thủ quốc gia qua 4 bản hiến pháp, chúng ta đều nhận thấy dù Chủ tịch nước là một cá nhân hay tập thể đều thể hiện vị trí chính trị pháp lý là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội đối ngoại. Cũng qua 4 bản Hiến pháp, chế định nguyên thủ quốc gia được xây dựng qua thời kỳ có những bước phát triển mới, đặc biệt là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của từng giai đoạn cách mạng, bảo đảm cho việc thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp nước ta qua các giai đoạn có những đặc điểm, tính chất và vị trí không giống bất kỳ một nguyên thủ quốc gia nào. Có sự đặc thù như vậy vì ở nước ta do cơ chế tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.