Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Vậy, hành vi tham nhũng có những đặc điểm gì?
1. Định nghĩa hành vi tham nhũng
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2018. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2019. Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã nêu rõ: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Ở khoản 2, Điều 3 của Luật phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng đã giải thích rõ người có chức vụ, quyền hạn bao gồm:
a) Cán bộ, công chức, viên chức;
b) Sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sỹ quan, hạ sỹ quan nghiệp vụ, sỹ quan, hạ sỹ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
c) Người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức;
e) Những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.
2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng
Thứ nhất: Tham nhũng phải là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn
Bởi vì chỉ khi “có chức vụ, quyền hạn” họ mới dễ lợi dụng chức vụ quyền hạn để nhu cầu lợi ích riêng. Chức vụ, quyền hạn mà chủ thể của hành vi tham nhũng có được có thể do được bầu cử, do được bổ nhiệm, do hợp đồng,do tuyển dụng, hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Chức vụ, quyền hạn phải gắn với quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực và các cơ quan khác nhau: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế Nhà nước hoặc lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương.
Đây là dấu hiệu giúp ta phân biệt hành vi tham nhũng với những vi phạm pháp luật có yếu tố vụ lợi nhưng không phải là hành vi tham nhũng do người thực hiện hành vi đó không có chức vụ và quyền hạn ví dụ như trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc buôn lậu,…
Thứ hai: Khi thực hiện hành vi tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình làm trái pháp luật để mưu lợi cá nhân.
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Nếu không có chức vụ, quyền hạn đó họ sẽ không thể thực hiện được hoặc khó có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật để đáp ứng nhu cầu hưởng lợi (trái pháp luật) của bản thân.
*Ví dụ: A là thủ quỹ, A lợi dụng công việc của mình lấy quỹ cơ quan để đầu tư mua bán đất đai riêng, nếu không phải là thủ quỹ thì A không thể hoặc khó có thể lấy được tài sản trong kho quỹ của cơ quan. Việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn là thủ kho trong trường hợp này đã giúp A đạt được mục đích hưởng lợi ích vật chất trái pháp luật. Đó chính là tham nhũng.
Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì không có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
*Ví dụ: Trường hợp một công chức có hành vi trộm cắp tài sản của người khác hoặc của cơ quan, tổ chức khác. Hành vi trộm cắp tài sản và chức vụ của người đó không có quan hệ gì với nhau trong các trường hợp này. Hành vi trộm cắp tài sản có thể được thực hiện bởi bất kỳ người nào không có chức vụ, quyền hạn hoặc có chức vụ, quyền hạn nhưng chức vụ, quyền hạn đó không liên quan đến việc quản lý, bảo vệ tài sản. Như vậy, dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái pháp luật là một dấu hiệu không thể thiếu của hành vi tham nhũng.
Thứ ba: Động cơ của người có hành vi tham nhũng là vì vụ lợi
Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để mưu cầu lợi ích riêng, hành vi của họ không phải là vì nhu cầu công việc hoặc trách nhiệm của cán bộ, công chức mà hoàn toàn vì lợi ích riêng và của đơn vị để nhằm chiếm đoạn tiền, tài sản, lợi ích vật chất hoặc lợi ích phi vật chất của nhà nước, xã hội và nhân dân như vậy thiếu yếu tố vụ lợi thì hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức không bị coi là tham nhũng. Như vậy có thể khẳng định rằng một hành vi được coi là tham nhũng khi thỏa mãn hai điều kiện, điều kiện cần đó là người thực hiện hành vi phải là người có chức vụ, quyền hạn và điều kiện đủ đó là người có chức vụ, quyền hạn phải lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình và động cơ của hành vi đó là vì vụ lợi.
*Dẫn chứng:
Nhiệm kỳ lịch sử khóa XII của Đảng ghi dấu ấn lớn bằng cuộc đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực khi không hề có vùng cấm, bất kể người đó là ai, đã và đang giữ cương vị gì. Cụm từ “hạ cánh an toàn” trước đây vẫn được nhắc tới để nói về việc một số quan chức sau khi về hưu là hết trách nhiệm với tổ chức và nhân dân, bất kể lúc đương chức có vi phạm thế nào. Thế nhưng, vài năm trở lại đây, cụm từ này đã được thêm một chữ “Không” ở giữa, tức là “hạ cánh không an toàn” khi rất nhiều cán bộ bị xử lý kỷ luật, thậm chí xử lý hình sự sau khi đã nghỉ công tác, như nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son phải chịu án tù chung thân về tội “nhận hối lộ và vi phạm các quy định về quản lý đầu tư công”. Cùng với đại án AVG của hai cựu Bộ trưởng, đại án về Phan Văn Anh Vũ (Vũ nhôm)và hai cựu Thứ trưởng Bộ Công an đãgây bức xúc trong dư luận và thất thoát đặc biệt nghiêm trọng cho ngân sách nhà nước. Danh sách các cán bộ cấp cao vi phạm kỷ luật luật bị xử lý còn có các đồng chí ủy viên, nguyên ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên, nguyên ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng và nhiều đồng chí là anh hùng lực lượng vũ trang. Cuộc chiến chống tham nhũng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát động và trực tiếp chỉ đạo mấy năm nay với biết bao kỳ vọng của người dân không cho phép ai thoát tội. Việc cương quyết xử lý những những cán bộ vi phạm kỷ luật, dù đương chức hay đã nghỉ hưu cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng. Nhưng quan trọng hơn cả đó là niềm tin của nhân dân với Đảng và chính quyền sẽ ngày càng được củng cố vững chắc.
Trong thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, tham nhũng đã được Đảng ta xác định là một trong những nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa, vì vậy công tác phòng, chống tham nhũng đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng mà trực tiếp là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng do đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng ban. Do đó, việc tổ chức triển khai công tác phòng, chống tham nhũng được thống nhất, kết hợp sự chỉ đạo định hướng của Đảng với việc tổ chức thi hành Luật Phòng chống tham nhũng của toàn bộ hệ thống chính trị, cơ quan nhà nước.
3. Nội dung quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng hiện nay
1. Tổng kết kết quả đã đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã hệ thống toàn diện nhưng rất khái quát về mục tiêu, quan điểm và những giải pháp chủ yếu phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:
– Phòng, chống tham nhũng có vai trò vô cùng quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, nên trong các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XI và lần thứ XII đã đề ra một số chủ trương, quan điểm về phòng, chống tham nhũng. Đặc biệt trong phần phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025 của Văn kiện Đại hội XIII đã đưa ra nhiều chủ trương và giải pháp căn cơ quyết liệt về phòng, chống tham nhũng: “Triển khai đồng bộ có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng, bảo đảm đúng pháp luật. Thực hiện quyết liệt nghiêm minh có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng”.
– Quan điểm, chủ trương của Đảng trong Đại hội XIII đã có những bước phát triển mới về phòng, chống tham nhũng, với nhiều biện pháp, như hoàn thiện pháp luật, chính sách, kê khai tài sản, kiên trì, kiên quyết và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đặc biệt nhấn mạnh vấn đề phòng tham nhũng : “Khẩn trương xây dựng cơ chế phòng ngừa, cơ chế răn đe để kiểm soát tham nhũng. Thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về thực hành tiết kiệm chống lãng phí. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ có hiệu quả về kê khai, kiểm soát, kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp”.
– Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra chủ trương về phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, đài truyền hình, các doanh nghiệp và nhân dân tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đảng ta xem đấu tranh phòng, chống tham nhũng là sự nghiệp của toàn dân. Quan điểm này được thể hiện rất rõ trong Văn kiện: “Nâng cao vai trò phát huy tính tích cực, chủ động và phối hợp của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị xã hội, nhân dân, doanh nghiệp, báo chí trong phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng”.
– Quan điểm của Đảng trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII đã có nhiều điểm mới về phòng, chống tham nhũng, nhất là vấn đề động viên, khuyến khích, khen thưởng những tổ chức, cá nhân dám tố cáo hành vi tham nhũng. Đặc biệt, Đảng đã chỉ đạo phải có cơ chế bảo vệ những người tố cáo hành vi tham nhũng tránh sự trả thù hoặc trù dập, đồng thời chỉ ra một số biện pháp về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát để phòng, chống tham nhũng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội. Vấn đề này được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII khẳng định: “Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức năng hỗ trợ thúc đẩy phát triển”.
– Nhận thức sâu sắc về sự phức tạp và vô cùng khó khăn của công tác phòng, chống tham nhũng nên Đảng đã chỉ đạo: Trong phòng chống tham nhũng phải kiên quyết, kiên trì và sử dụng tổng hợp nhiều phương thức, biện pháp mới mang lại hiệu quả. Quan điểm này được thể hiện rất rõ trong Văn kiện Đại hội XIII: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”.
– Có thể nói vấn đề đấu tranh phòng chống tham nhũng được Đảng ta đặc biệt quan tâm, đề cập trên nhiều lĩnh vực và trong nhiều nội dung của văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII với một quyết tâm chính trị cao để phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với hành vi tham nhũng với một phương châm: “Sai phạm đến đâu thì xử lý đến đó và không có “vùng cấm” trong phòng, chống tham nhũng.
2. Tiếp tục phát huy thành quả đạt được trong công tác phòng chống tham nhũng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, cần thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Một là, xác định rõ cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đòi hỏi “phải kiên trì, liên tục” với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn, “trước hết là sự gương mẫu, quyết liệt, nói đi đôi với làm của người đứng đầu” cấp ủy, chính quyền, cơ quan, tổ chức, đơn vị; là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Có thể khẳng định, tham nhũng là căn bệnh trầm kha của mọi thời đại, xảy ra ở tất cả các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế giàu hay nghèo. Tham nhũng luôn song hành cùng quyền lực, nhiều người coi tham nhũng là “bóng tối vươn theo quyền lực”, là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực. Chừng nào các hình thức quyền lực chính trị còn bị tha hoá, quyền lực nhà nước còn bị lợi dụng, quyền lực không được kiểm soát thì nguy cơ xảy ra tham nhũng là hiện hữu. Nhận thức như vậy để chúng ta ý thức rõ ràng nguy cơ tiềm tàng của nó khi thực hành quyền lực trong tiến trình phát triển của xã hội, theo đó để có các giải pháp “ngăn chặn và từng bước đẩy lùi” tệ nạn này, với sự kiên trì, bền bỉ, là cuộc chiến lâu dài, không thể thắng lợi triệt để trong một sớm, một chiều.
Hai là, khẳng định rõ “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, thực hiện đồng bộ các biện pháp “chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự” trong phòng, chống tham nhũng. Mặt khác, yêu cầu quá trình phát hiện, xử lý tham nhũng phải xem xét, đánh giá khách quan, biện chứng, thận trọng, làm rõ động cơ, mục đích sai phạm để phân biệt hành vi của những người dám nghĩ, dám làm, có động cơ trong sáng vì sự nghiệp đổi mới đất nước với hành vi của những người có động cơ tư lợi cá nhân để xử lý phù hợp, động viên, khuyến khích, bảo vệ những người dám nghĩ, dám làm, mạnh dạn đi đầu, đổi mới, sáng tạo vì sự nghiệp chung của đất nước. Từ đó phải phân hóa, xác định rõ trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân, tập thể trong từng trường hợp cụ thể để quyết định các biện pháp xử lý hành chính, hình sự hoặc xử lý khác cho phù hợp, bảo đảm “thấu tình, đạt lý”, “tâm phục, khẩu phục”, “rất nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn”, nhằm “giáo dục cảnh tỉnh”, “răn đe, phòng ngừa sai phạm”… như đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã nhiều lần nhấn mạnh.
Ba là, “coi trọng giáo dục liêm chính”, kiên trì giáo dục, rèn luyện đức tính liêm khiết, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, trước hết trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Đó là ý thức tự giác chấp hành các quy định về phòng, chống tham nhũng; phê phán, lên án, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; trọng liêm sỉ, danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân tham nhũng. Bên cạnh đó, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đạo đức công vụ; xây dựng hướng dẫn khung các Bộ quy tắc ứng xử phòng, chống tham nhũng; xây dựng các biện pháp bảo đảm thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp; tiếp tục hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra hoạt động công vụ… để hình thành ngày càng rõ nét văn hóa liêm chính, giải pháp căn cơ để phòng, chống tham nhũng.
Bốn là, đẩy mạnh “kiểm soát quyền lực” để phòng, chống tham nhũng; kịp thời xử lý, điều chuyển, thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, uy tín thấp; xử lý nghiêm những cán bộ nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp. Năm là, từng bước mở rộng phạm vi “phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước” để ngăn chặn sự cấu kết giữa cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thoái hóa, biết chất với đối tượng hoạt động ở khu vực ngoài nhà nước.
4. Nguyên nhân dẫn đến hành vi và phân loại tham nhũng:
Hiện nay, tham nhũng là vấn đề mang tính toàn cầu nhưng đồng thời nó cũng chứa đựng những yếu tố đặc thù gắn với từng quốc gia. Về cơ bản mỗi quốc gia có những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng riêng. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở xem xét nguyên nhân, điều kiện phát sinh tham nhũng của các nước trên thế giới, thấy rằng tuy có điểm riêng nhưng cũng có một số nguyên nhân, điều kiện mang tính chất chung, tương đồng, đó là:
Sự phát triển của các hình thái Nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế, chính trị tạo ra tiền đề khách quan cho tham nhũng nảy sinh, phát triển. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng nguồn gốc sâu xa của tệ tham nhũng là sự gặp nhau của hai nhân tố: Quyền lực công và lòng tham cá nhân.
Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước trước hết đại diện cho quyền lực của một giai cấp nhất định, nó có chức năng điều hòa những lợi ích của các giai cấp khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Quyền lực của Nhà nước khi được trao cho những con người cụ thể, những người đại diện cho Nhà nước thực thi quyền lực công, nếu không có cơ chế kiểm soát dễ dẫn tới sự lợi dụng quyền lực hoặc lạm quyền. Sự gặp nhau giữa quyền lực công khi không được chế ước với nhu cầu cá nhân vượt quá giới hạn cho phép, lòng tham, đã dẫn tới việc sử dụng quyền lực công phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Đó chính là cơ sở nảy sinh tham nhũng. Tham nhũng còn được coi là “sản phẩm của sự tha hóa quyền lực”.
Tham nhũng là hệ quả tất yếu của của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế, xã hội lỏng lẻo, yếu kém. Thực tế cho thấy ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, quản lý công khai, minh bạch, văn minh thì tham nhũng xảy ra ít hơn. Ngược lại, ở các quốc gia, vùng lãnh thổ đang phát triển, trình độ quản lý và dân trí chưa cao thì ở đó tham nhũng phức tạp hơn.
Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và đồng bộ hoặc thực thi pháp luật yếu kém cũng là một nguyên nhân và điều kiện của tham nhũng. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán có nhiều “kẽ hỡ” tạo cho những người có chức vụ, quyền hạn, điều kiện để “lách luật” trục lợi, làm giàu bất chính.
Phẩm chất chính trị đạo đức của đội ngũ có chức, có quyền bị suy thoái đặc biệt là suy thoái tư tưởng chính trị. Họ sẵn sàng bỏ qua lợi ích chung, lợi ích tập thể để trục lợi, làm giàu bất chính cho bản thân, gia đình, họ hàng mình; nhất là trong điều kiện khủng hoảng chính trị, xã hội, kinh tế ảnh hưởng tiêu cực tới đạo đức của đội ngũ công chức.
Trình độ dân trí thấp, ý thức pháp luật của người dân chưa cao tạo điều kiện cho những người có chức quyền có thể nhũng nhiễu, hạch sách dân chúng, vòi vĩnh nhận quà biếu, tặng hay nói cách khác là nhận hối lộ. Thực tế ở các nước phát triển có trình độ dân trí cao thì tham nhũng ít xảy ra hơn là những nước đang phát triển và kém phát triển với trình độ dân trí thấp, người dân chưa có điều kiện tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Bộ máy hành chính nhà nước cồng kềnh, với nhiều thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý tạo điều kiện cho một số cán bộ, công chức nhà nước sách nhiễu, ăn hối lộ của người dân, doanh nghiệp. Một số cơ chế “xin – cho”, đó là “mảnh đất màu mỡ” của tham nhũng.
Chế độ, chính sách đãi ngộ, nhất là vấn đề tiền lương cho cán bộ, công chức chưa thỏa đáng. Một khi cán bộ, công chức Nhà nước chưa thể sống no ấm, đầy đủ với tiền lương của mình thì tất yếu họ sẽ tìm mọi cách để kiếm thêm thu nhập từ chính công việc, chức vụ mà nhà Nước giao cho mình kể cả tham nhũng.
5. Các hình thức nhận diện tham nhũng
Tham nhũng vật chất, là dạng tham nhũng nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất của cá nhân như tiền bạc, tài sản.
Tham nhũng quyền lực, là dạng tham nhũng mà người tham nhũng lợi dụng quyền lực cá nhân để đưa những người thân tín vào bộ máy công quyền cũng như vào các tổ chức chính trị, xã hội, đơn vị kinh tế, tài chính… vì động cơ vụ lợi.
Tham nhũng chính trị, là dạng tham nhũng được hình thành do sự câu kết giữa những người có ảnh hưởng trong hệ thống chính trị, chủ yếu là những quan chức cấp cao trong bộ máy cầm quyền, nhằm tạo ra những quyết định, hay tìm cách tác động thiên lệch vào những quyết sách của Nhà nước có lợi cho một cá nhân, doanh nghiệp hoặc những nhóm lợi ích nào đó.
Tham nhũng hành chin, là dạng tham nhũng xảy ra phổ biến trong các hoạt động quản lý hành chính của đội ngũ công chức hành chính. Ở đó những người được giao quyền đã sử dụng quyền lực hành chính, trình tự thủ tục hành chính để gây khó khăn cho công dân hoặc tổ chức nhằm trục lợi cho bản thân.
Tham nhũng kinh tế, là dạng tham nhũng xảy ra trong hoạt động quản lý kinh tế, như: Sản xuất kinh doanh, dịch vụ, mua sắm tài sản công, quản lý tài sản…được thực hiện bởi những người có thẩm quyền trong quản lý Nhà nước về kinh tế, những người có thẩm quyền trong doanh nghiệp Nhà nước.
6. Tài liệu tham khảo
1. Ban Nội Chính Trung ương, Đề tài đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta, Hà Nội, 1998; Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ tư pháp, Tài liệu chống tham nhũng, Hà Nội, 1994; Đỗ Ngọc Quang, Bàn về khái niệm tham nhũng, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 4 – 1997, tr 64 – 67; Nguyễn Mạnh Kháng, Bàn thêm về vấn đề đấu tranh phòng chống tham nhũng, Tạp chí NN&PL số 11-1997, tr16 – 22; Viện thông tin Khoa học Xã hội, Tham nhũng tệ nạn của mọi tệ nạn, Hà Nội, 1997; Đào Trí Úc, Tham nhũng nhận diện từ khía cạnh pháp lý và cơ sở pháp lý mới của đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9 -1996.
2. Báo cáo của Chánh án Toà án nhân dân Tối cao về công tác toà án, tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khoá 11, Tháng 10-2002.
3. International Review of Criminal Policy, No 41, A/ Conf, 169/14; 1995, 13 April
4. Ngân hàng thế giới, Kiềm chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng trong sạch quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
5. Đào Trí Úc, Tham nhũng nhận diện từ khía cạnh pháp lý và cơ sở pháp lý mới của đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9-1996, tr3-tr10.