Câu 1: Chính trị là gì? Chính trị học là gì? Trình bày đối tượng nghiên cứu của chính trị học?
Trả lời:
1. Chính trị là gì?
Chính trị:
- là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước.
- là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội.
- là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
2. Chính trị học là gì?
Chính trị học là khoa học nghiên cứu về lĩnh vực chính trị nhằm làm sáng tỏ những quy luật, tính quy luật của đời sống chính trị – xã hội, cùng những thủ thuật chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật trong xã hội có giai cấp và được tổ chức thành nhà nước.
3. Đối tượng nghiên cứu của chính trị học:
– Mọi khoa học, như Ph.Ăngghen khẳng định, đều có đối tượng nghiên cứu riêng là những quy luật, tính quy luật thuộc khách thể nghiên cứu của nó. Điều đó cũng hoàn toàn đúng với Chính trị học, khoa học lấy lĩnh vực chính trị làm khách thể nghiên cứu.
– Cùng một khách thể, có thể có nhiều khoa học nghiên cứu. Lĩnh vực chính trị là khách thể nghiên cứu của: chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà nước và pháp luật, luật học, xã hội học, xây dựng Đảng… Sự phân biệt Chính trị học với các khoa học chính trị khác trước hết là ở đối tượng nghiên cứu.
– Chính trị học nghiên cứu khái quát đời sống chính trị của xã hội nhằm đạt được những tri thức mang tính bản chất, từ đó làm cơ sở cho việc nhận thức đúng đắn những quy luật, tính quy luật chi phối toàn bộ đời sống chính trị, là khoa học nghiên cứu đời sống chính trị xoay quanh vấn đề trung tâm, then chốt là quyền lực chính trị. Từ đó có thể xác định: Chính trị học là khoa học nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể nhằm nhận thức và vận dụng những quy luật và tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị. Đối tượng nghiên cứu của Chính trị học là những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị xã hội, những cơ chế tác động, cơ chế vận dụng, những phương thức, thủ thuật, công nghệ chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật đó.
– Để khái quát hóa những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị, Chính trị học đi sâu nghiên cứu các hình thức hoạt động xã hội đặc biệt có liên quan đến nhà nước.
+ Hoạt động xác định mục tiêu chính trị trước mắt, mục tiêu triển vọng dưới dạng khả năng và hiện thực, cũng như những con đường giải quyết các mục tiêu đó có tính đến tương quan lực lượng xã hội, khả năng xã hội ở giai đoạn phát triển tương ứng của nó.
+ Hoạt động tìm kiếm, thực thi các phương pháp, phương tiện, những thủ thuật, những hình thức tổ chức có hiệu quả đạt mục tiêu đã đề ra.
+ Việc lựa chọn, tổ chức, sắp xếp những cán bộ thích hợp nhằm hiện thực hóa có hiệu quả mục tiêu.
– Đồng thời, với việc nghiên cứu các hoạt động của các chủ thể, Chính trị học còn nghiên cứu các quan hệ giữa các chủ thể chính trị:
+ Quan hệ giữa các giai cấp, thực chất là quan hệ giữa các lợi ích chính trị mà các giai cấp theo đuổi để hình thành lý luận về liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác các giai cấp vì yêu cầu chính trị.
+ Quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống tổ chức quyền lực: đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội để hình thành lý luận về đảng chính trị, nhà nước pháp quyền, và về hệ thống chính trị và cơ chế thực thi quyền lực chính trị.
+ Quan hệ giữa các dân tộc để hình thành lý luận chính trị về vấn đề dân tộc trong sự vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc.
+ Quan hệ giữa các quốc gia để hình thành học thuyết về chính trị quốc tế trong thời đại quốc tế hóa hiện nay.
Câu 2: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị của phái Nho gia sơ kỳ? Phân tích mặt tích cực và hạn chế của nó? Liên hệ với Việt Nam?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Nội dung tư tưởng chính trị của phái Nho gia sơ kỳ:
Tư tưởng Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc và các nước láng giềng trong suốt hơn 2000 năm lịch sử. Hai nhân vật tiêu biểu của trường phái Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử.
a. Khổng Tử:
* Tiểu sử: Khổng Tử là người sáng lập ra trường phái Nho gia. Ông tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ ở nước Lỗ. Thời trẻ, ông đã từng mở trường dạy học, ra làm quan. Vì không được trọng dụng, ông dẫn các học trò đi chu du các nước hơn 10 năm. Cuối đời, ông trở về nước Lỗ tiếp tục dạy học và chỉnh lý, san định các thư tịch cổ như ngũ kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và viết kinh Xuân Thu. Luận ngữ là bộ sách do học trò của Khổng Tử ghi lại.
* Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội – một xã hội “thái bình thịnh trị”. Theo ông, chính trị là chính đạo, đạo của người làm chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân, nhà Nho phải tham chính… Từ nhận thức đó, Khổng Tử cho rằng, xã hội loạn lạc là do mỗi người không ở đúng vị trí của mình, Lễ bị xem nhẹ. Để thiên hạ có “đạo”, quay về Lễ, phải củng cố điều Nhân, coi trọng Lễ nghĩa, mỗi người phải hành động trong khuôn khổ của mình, từ đó xã hội sẽ ổn định. Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, ông đề ra học thuyết “Nhân – Lễ – Chính danh”
– Nhân là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nó là thước đo, là chuẩn mực quyết định thành hay bại, tốt hay xấu của chính trị. Nội dung điều Nhân rất rộng, bao hàm các vấn đề về đạo đức, lý luận xã hội. Trong chính trị, điều Nhân thể hiện ở các nội dung:
+ Thương yêu con người, trong đó thương yêu người thân của mình hơn và yêu người nhân đức hơn. Từ thương người đi đến hai nguyên tắc: “Điều mình không muốn thì đừng đối xử với người khác” và “Mình muốn thành đạt thì phải làm cho người khác thành đạt”
+ Tu dưỡng bản thân, sử mình theo lễ.
+ Tôn trọng và sử dụng người hiền.
Nhân là trung thành, là vị tha. Người có Nhân phải thực hiện 5 điều: Cung kính, khoan nhượng, giữ chữ tín, siêng năng, làm lợi cho người khác. Hiều với cha mẹ và hữu ái là gốc của đức Nhân.
=> Như vậy, nội dung Nhân là nhân đạo, yêu thương con người, coi người như mình, giúp đỡ lân nhau. Khi điều Nhân đã bao trùm thì không còn mâu thuẫn, xung đột, lễ nhà Chu được phục tùng, xã hội sẽ tự ổn định. Theo Khổng Tử, đạo Nhân không phải để cho tất cả mọi người mà chỉ có ở người “quân tử” (quý tộc, trí thức thuộc giai cấp thống trị), còn kẻ “tiểu nhân” (người lao động, giai cấp bị trị) thì không bao giờ có. Để đạt được điều Nhân, cần phải có Lễ.
– Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận hóa, biến Lễ thành những quy định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, được thể hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà cửa…
+ Lễ là chuẩn mực đạo đức, là khuôn mẫu cho mọi hành động của cá nhân và các tầng lớp trong xã hội. Lúc này, Lễ mang tính pháp lý, có tác dụng khống chế các hoạt động thái quá. Ai ở địa vị nào thì chỉ được dùng Lễ ấy, tùy vào tính chất công việc khác nhau. Lễ là bộ phận của Nhân. Lễ là ngọn, Nhân là gốc. Người có đức Nhân là người “không nhìn cái không hợp Lễ, không nghe cái không hợp Lễ, không nói những điều không hợp Lễ, không làm những điều không hợp Lễ”…
+ Lễ tạo cho con người biết phân biệt trên dưới, biết thân phận, vai trò, địa vị của mình trong xã hội, biết phục tùng làm theo điều lành và xa rời điều ác.
+ Theo Khổng Tử, Lễ quy định chuẩn mực cho các đối tượng quan hệ cơ bản: vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn bè. Các quan hệ này đều có hai chiều, phụ thuộc vào nhau. “Vua sai khiến bề tôi phải theo Lễ, bề tôi thờ vua theo đạo trung, cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha phải hiếu thảo…” Nhưng ông cũng coi việc bề dưới lật đổ bề trên là hợp lý, khi bề trên không xứng đáng với danh vị của mình nữa. Việc vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương bị lật đổ là hợp mệnh trời, vì đó là những ông vua ác, thất nhân tâm.
+ Khổng Tử xem Lễ như luật lệ. “Một ngày sửa mình theo Lễ thì thiên hạ sẽ theo về”. Lễ không phải dùng cho tất cả mọi người mà chỉ đem áp dụng cho người có Nhân. Cung kính là gốc của Lễ. Nhân có trước, Lễ có sau.
– Chính danh là danh phận đúng đắn, ngay thẳng. Đây là phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Chính danh là xác định và phân biệt quan hệ danh phận, đẳng cấp giữa các giai cấp, thực chất là khẳng định tính hợp lý của giai cấp quý tộc trong việc thực thi quyền lực của mình. Nó vừa là điều kiện, vừa là mục đích của chính trị. Chính danh thể hiện ở các nội dung:
+ Xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng cá nhân, tầng lớp trong xã hội. Ai ở vị trí nào thì làm tròn bổn phận ở vị trí ấy: vua phải giữ đúng đạo làm vua, tôi phải giữ đúng đạo làm tôi, cha phải giữ đúng đạo làm cha, con phải giữ đúng đạo làm con; không được làm quá chức năng, bổn phận của mình.
+ “Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung phải phù hợp với hình thức. Trong chính trị, lời nói phải đi đôi với việc làm.
+ Đặt con người vào đúng vị trí và chức năng. Phải xác định “danh” trước khi có “thực” vì “danh” là điều kiện thi hành “thực”. Khi có danh thì thực mới có ý nghĩa “danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành”.
+ Giữa Chính danh và Lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: muốn “danh” được “chính” (đúng đắn, phù hợp với thực) thì phải thực hiện Lễ. Chính danh là điều kiện để thực hiện, trau dồi Lễ.
+ Chính danh là một biện pháp quy định và giúp mọi người nhận rõ cương vị, quyền hạn và nghĩa vụ của mình trong quan hệ với chức vụ và đẳng cấp tương ứng. Có xác định được danh phận thì mới điều hòa được các mối quan hệ. Đây là vấn đề cơ bản của cách ứng xử chính trị.
=> Học thuyết chính trị của Khổng Tử được xây dựng trên ba phạm trù cơ bản: Nhân – Lễ – Chính danh. Nhân là cốt lõi của vấn đề, vừa là điểm xuất phát nhưng cũng là mục đích cuối cùng của hệ thống. Do vậy, có thể gọi học thuyết của chính trị của Khổng Tử là “đức trị” vì lấy đạo đức làm gốc hay “nhân trị”. Điều nhân được biểu hiện thông qua lễ, chính danh là con đường đạt đến điều nhân. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên tính chặt chẽ của học thuyết. Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng Tử là duy tâm và phản động, vì nó không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ khai thác yếu tố tinh thần – đạo đức. Mục đích của học thuyết này là bảo vệ chế độ đẳng cấp, củng cố địa vị thống trị của giai cấp quý tộc đã lỗi thời, đưa xã hội trở về thời Tây Chu.
b. Mạnh Tử:
Mạnh Tử là người nước Trâu. Ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng của Khổng Tử, xây dựng học thuyết “Nhân chính” (chính trị nhân nghĩa) của mình. Tư tưởng chính trị của ông có những nội dung cơ bản sau:
– Thuyết tính thiện: Theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người là thiện. Con người có lòng trắc ẩn thì tự nhiên biết xấu hổ, nhường nhịn, biết phải trái. Lòng trắc ẩn là nhân, biết xấu hổ là nghĩa, biết nhường nhịn là lễ, biết phải trái là trí. Nhân, lễ, nghĩa, trí là bốn thứ vốn có ở tâm ta. Con người trở thành ác vì không biết tu tâm, dưỡng tính, để cho vật dục chi phối, chạy theo lợi ích cá nhân.
– Quan niệm về vua – tôi – dân: Mạnh Tử cho rằng, Thiên từ là do mệnh trời trao cho thánh nhân và vận mệnh trời nhất trí với ý dân. Trời ngấm ngầm trao quyền cho người có đức, hợp lòng dân. Quan hệ vua – tôi là quan hệ hai chiều: “Vua coi bầy tôi như chân tay thì bầy tôi coi vua như ruột thịt, vua coi bầy tôi như chó ngựa thì bầy tôi coi vua như người dưng, vua coi bầy tôi như cỏ rác thì bầy tôi coi vua như cừu địch”. Tiến thêm một bước, ông cho rằng: “Ta phải hiểu là giết thằng Trụ chứ không nên hiểu là giết vua vậy”. Mạnh Tử đề xuất tư tưởng “nhường ngôi”. Thiên tử có thể nhường ngôi cho vua chư hầu, căn cứ vào đức hạnh và khăn năng thực hành nhân chính của ông ta.
+ Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng nhân dân: “Dân là quý nhất, quốc gia đứng thứ hai, vua là không đáng trọng”. Như dân ở đây là chỉ thần dân, kẻ phụ thuộc, bị thống trị. Coi trọng dân chỉ là thủ đoạn chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi.
– Quan niệm về quân tử – tiểu nhân: Quân tử là hạng người lao tâm, cai trị và được cung phụng. Tiểu nhân là hạng người bạo lực, bị cai trị và phải cung phụng người. Mạnh Tử đề xuất chủ trương dùng người hiền để thực hành chính trị nhân nghĩa. Trị nước là nghề cao quý và quan trọng nhất, nên người cai trị phải được tuyển chọn công phu, chu đáo. Nhưng bất đắc dĩ mới để cho có ngoại lệ “kẻ hèn vượt người tôn quý”.
– Chủ trương vương đạo: Mạnh Tử kịch liệt phản đối chiến tranh, bạo lực, nguồn gốc của mọi rối ren, loạn lạc. Chính trị “vương đạo” là nhân chính, lấy dân làm gốc. “Vương đạo” chỉ nhằm vào nhân nghĩa để mỗi người “tự nuôi lấy bản thân mà chờ số mệnh” thì thiên hạ sẽ bình yên vô sự. Muốn cho tâm trí dân ổn định không làm loạn, thì phải tạo điều kiện cho họ có một mức sống vật chất tối thiểu. Thực chất của “”vương đạo” là người cai trị phải giáo dục dân tuyệt đối phục tùng bề trên, thực hiện “tam cương, ngũ thường”, trói buộc ý thức và luân lý Nho giáo để dễ bề cai trị họ.
=> Học thuyết “chân chính” của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ hơn so với Khổng Tử. Tuy vẫn đứng trên lập trường của giai cấp thống trị, nhưng ông đã nhìn thấy được sức mạnh của nhân dân, chủ trương thi hành nhân chính, vương đạo. Đó là những yếu tố dân chủ, tiến bộ. Điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời và tính thần bí trong lý giải vấn đề quyền lực.
2. Liên hệ với Việt Nam:
Nho gia Trung Quốc tác động tới Việt Nam trên mọi phương diện: thể chế chính trị, giáo dục, đao đức, văn học, nghệ thuật, phong tục… Nho gia ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa xã hội Việt Nam:
– Ban đầu khi được truyền bá vào Việt Nam, Nho gia đã được sử dụng như một thứ vũ khí để thể hiện sức mạnh và tham vọng đồng hóa người phương Nam của phong kiến phương Bắc. Tuy nhiên, Nho giáo được người Việt tiếp biến có chọn lọc và mang những nội hàm mới.
– Tư tưởng chính trị của Nho gia góp phần xây dựng nên nhà nước phong kiến Việt Nam vững mạnh (là nền tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật, phát triển kinh tế – xã hội). Thời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông đưa Nho giáo thành quốc giáo ở nước ta. Ông tổ chức nhiều khoa thi để tuyển chọn nhân tài vào làm việc trong bộ máy nhà nước. Ông tiến hành cải cách bộ máy hành chính, xây dựng hệ thống chính trị chặt chẽ từ cơ sở đến trung ương, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, đưa pháp luật vào đời sống, thay thế các tục lệ cũ.
– Nho gia không chú ý đến khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật là kìm hãm đất nước ta nhiều thế kỷ.
– Nho gia được Việt Nam hóa đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập và sự thay đổi trong định hướng giá trị nhân cách cỉa người Việt Nam, việc phát triển con người Việt Nam bền vững cần có Nho gia là cơ sở triết học vững chắc nhằm đảm bảo, duy trì các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp mà vẫn chứa đựng những yếu tố năng động, hiện đại.
3. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở nước ta hiện nay
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến. Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với những sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc chung. Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của không ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia trưởng, đứng đầu dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử – gia trưởng của gia đình lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục tùng bề trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở tổ chức nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha, người chồng :”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”, “anh em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội thông qua lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa hành mà không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo chức quyền. Trong xã hội phong kiến, địa vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn nữa, khi có chức, không những bản thân được vinh hoa phú quý mà “một người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách để có danh, để thăng quan, tiến chức đã trở thành lẽ sống của một số người. Thạm chí việc học tập theo họ cũng là “học để làm quan”.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng nhắc đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa có tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài.
Câu 3: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Liên hệ với Việt Nam?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phải, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Nội dung tư tưởng của Pháp gia:
Vào cuối thời Chiến quốc, quá trình phát triển kinh tế – xã hội mạnh mẽ cùng với sự phân hóa giai cấp ngày càng sâu sắc đã cho ra đời một tầng lớp mới là địa chủ mới và thương nhân. Do áp dụng phương thức sản xuất tiến bộ và chính sách kinh tế phù hợp nên tầng lớp này đã nắm giữ, chi phối nền kinh tế đất nước. Tuy vậy, tầng lớp quý tộc cũ nắm giữ quyền lực chính trị và đang trở thành vật cản của phát triển xã hội. Yêu cầu bức xúc lúc này là tập phân trung kinh tế và quyền lực để kết thúc tình trạng phân tranh, cát cứ, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Pháp gia ra đời đã đáp ứng được yêu cầu trên. Tư tưởng Pháp gia được áp dụng thành công và đưa vào thời Tần trở thành bá chủ, thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công Nguyên
Phái Pháp gia gồm nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau như phái trọng pháp, phái trọng thuật, phái trọng thế. Hàn Phi Tử là người tổng kết và phát triển tư tưởng của những nhà Pháp gia tiền bôi, hoàn chỉnh học thuyết này.
Hàn Phi Tử (khoảng 280 – 233 TCN) là nhà tư tưởng cuối cùng của thời Tiên Tần, là con của công tử (con vua) nước Hàn. Ông cùng với Lý Tư (Tể tưởng của Tần Thủy Hoàng) là học trò của Tuân Tử, nhà tư tưởng lớn nhất đương thời. Ông muốn dùng học thuyết của mình để giúp vua làm cho đất nước phú cường, nhưng không được vua Hàn trọng dụng. Đến nước Tần, ông bị Lý Tư hãm hại buộc phải tự sát trong ngục. Tác phẩm Hàn Phi Tử của ông là tác phẩm kinh điển của phái Pháp gia.
Hàn Phi Tử cho rằng, xã hội loài người luôn biến đổi, phát triển theo hướng đi lên. Bản tính con người là ham lợi. Điều lợi ảnh hưởng và chi phối các mối quan hệ trong xã hội. Chính trị đương thời không nên bàn chuyện nhân nghĩa cao xa mà cần có biện pháp cụ thể, cứng rắn, kiên quyết. Từ nhận thức đó, học thuyết chính trị của ông được xây dựng trên cơ sở thống nhất pháp – thuật – thế:
– Pháp luật là những quy ước, khuôn mẫu, chuẩn mực do vua ban ra, được phổ biến rộng rãi để nhân dân thực hiện. Pháp luật phải hợp thời, đáp ứng được những yêu cầu, không phát triển của xã hội, rõ ràng, dễ hiểu, phù hợp với trình độ dân chúng. Pháp luật phải công bằng, để kẻ mạnh không lấn át kẻ yếu, đám đông hiếp áp số yếu. Quyền lực cần phải tập trung vào một người là vua. Vua đề ra pháp luật, quan lại theo dõi việc thực hiện, dân là người thi hành pháp luật.
– Thuật là thủ đoạn hay thuật cai trị của người làm vua, để kiểm tra, giám sát, điều khiển bầy tôi. Thuật là phương pháp tuyển chọn, sử dụng người đúng chức năng, tạo cho họ làm tròn bổn phận của mình. Như vậy, thuật là yếu tố cần thiết, bổ trợ và làm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Thuật phải được giữ bí mật, kín đáo, không được tiết lộ với bất cứ ai. Vua không được để lộ sự yêu ghét của mình, đề phòng quần thần lợi dụng. Ông ta không phải làm gì mà bắt các quan phải làm việc cai trị dân chúng.
– Thế là uy thế, quyền lực của người cầm quyền. Quần thần phục tùng nhà vua không phải theo tình cốt nhục, mà chịu sự ràng buộc bởi quyền lực. Yếu tố để quẩn thần buộc phải tuân theo đó là thế. Thế là quyền lực đảm bảo cho việc thi hành pháp luật. Thế phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung, không được chia sẻ, không được để rơi vào tay người khác. Vua phải nắm chắc hai phương tiện cưỡng chế, đó là “nhị bính”: thưởng và phạt. Thưởng, phạt phải căn cứ vào cơ sở pháp luật chứ không thể tùy tiện, Vua cũng phải phục tùng pháp luật. Khi có thể, quyền uy của vua cũng sẽ tăng lên, lời nói có thêm sức mạnh.
– Hàn Phi Tử cho rằng: “pháp”, “thuật”, “thế” cần phải kết hợp làm một, trong đó “pháp” là trung tâm, “thuật” và “thế” là những điều kiện tất yếu trong việc thi hành luật. Pháp luật phải vì lẽ phải và phục vụ lợi ích chung, “việc phạt tội không trừ bậc đại thần, việc thưởng công không bỏ sót kẻ thất phu”
– “Pháp trị” đối lập với “Nhân trị” của Nho gia. Theo Hàn Phi Tử, nguồn gốc làm rối loạn pháp luật là do bọn du sĩ và các học thuyết chính trị đua nhau làm hỏng pháp độ, cho nên phải dùng pháp luật để ngăn cấm và không cho họ tham gia chính trị.
=> Như vậy, đứng trên lập trường của giai cấp địa chủ mới, tư tưởng Pháp gia đã khai thông các bế tắc xã hội, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Tư tưởng Pháp gia đã phục vụ đắc lực cho chế độ phong kiến trung ương tập quyền, góp phần không nhỏ trong việc củng cố chế độ phong kiến đời Tần. Tuy nhiên, học thuyết Pháp trị bị giai cấp cầm quyền cực đoan hóa, dẫn đến sự thống trị hà khắc tàn bạo (như vụ án lịch sử Tần Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách, chôn kẻ sỹ).
2. Liên hệ với Việt Nam:
Đối với Việt Nam, tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử chiếm một ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị.
– Từ thời phong kiến, các vua chúa Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tư tưởng cai trị phương Bắc, trong đó, biết đề ra các quy tắc, chuẩn mực xã hội, buộc mọi người phải tuân theo nhằm ổn định xã hội (Luật Hình thư, Luật Hồng Đức, Luật Gia Long…)
– Biểu hiện thời hiện đại: Việc xây dựng Hiến pháp, pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Câu 4: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lỗi và những mục đích đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Văn minh Hy Lạp cổ đại đã tạo tiền đề hình thành và phát triển khá sớm những tư tưởng chính trị của nhân loại. Những vấn đề căn bản của chính trị, tư duy chính trị đã được đặt ra và luận giải trên những nét chính ngay ở thời kỳ này. Trong quá trình phát triển từ chế độ cộng sản nguyên thủy sáng chiếm hữu nô lệ, ở Hy Lạp đã xuất hiện các quốc gia thành thị chiếm hữu nô lệ. Mâu thuẫn xã hội giữa các tập đoàn trong giai cấp chủ nô nhằm tranh giành quyền lực và mâu thuẫn giữa chủ nô với nô lệ và tầng lớp thị dân tự do ngày càng gay gắt dẫn đến hình thành các phe phái chính trị và xuất hiện những chính trị gia xuất sắc.
1. Hêrêđốt (484 – 425 TCN)
Hêrêđốt được coi là người cha của chính trị học. Ông là người đầu tiên phân biệt và so sánh các thể chế chính trị khác nhau. Theo ông, có ba thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ.
– Quân chủ: là thể chế độc quyền của một người là vua. Vua có công lập quốc, sống vì nước, vì dân. Vua có quyền cấm tất cả những ý kiến phản biện, phản kháng. Đặc quyền và lạm dụng quyền lực khiến vua dễ trở thành tội lỗi.
– Quý tộc: là thể chế được xây dựng trên cơ sở cầm quyền của một nhóm người ưu tú nhất của đất nước, vì lợi ích chung. Tuy nhiên, thể chế này dễ có sự khác biệt, bất hòa, chia bè kéo phái dẫn đến tranh giành, tàn sát lẫn nhau.
– Dân chủ: là thể chế mà quyền lực do đông đảo nhân dân nắm bằng con đường bỏ phiếu để trao những chức vụ công cộng một cách đúng đắn và ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực, xây dựng nhà nước trên nguyên tắc cơ bản: tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Nhưng khi dân chúng có trình độ thấp thì dễ bầu ra những người lãnh đạo kém hiểu biết. Họ dễ bị kích động bởi các cá nhân cầm quyền, từ đó xảy ra tình trạng vô chính phủ.
2. Xênôphôn (khoảng 427 – 355 TCN)
– Ông thuộc tầng lớp quý tộc. Khi bàn về chính trị, ông bàn về cách cai trị và cách quản lý. Ông thấy chính trị có một nghệ thuật thực hành, nghệ thuật cao nhất – nghệ thuật của bậc đế vương. Ai nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ trở thành người trung thực, người tốt. Ai ngu dốt về chính trị sẽ rơi vào hàng nô lệ.
– Tư tưởng chính trị của ông thể hiện ở quan điểm về thủ lĩnh chính trị. Theo ông, thủ lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục, biết cảm hóa người khác. Nhưng người thủ lĩnh cũng phải có những phẩm chất đặc biệt như biết bảo vệ lợi ích chung, có khả năng tập hợp sức mạnh của quần chúng. Thiên tài của thủ lĩnh không phải tự nhiên mà có. Nó sinh ra từ sự kiên nhẫn, từ khả năng chịu đựng lớn vể mặt thể chất, với ý chí sống và rèn luyện theo phong cách thanh liêm.
3. Platôn (428 – 347 TCN)
– Platôn là nhà triết học thiên tài, đồng thời còn là nhà chính trị xuất sắc. Tư tưởng chính trị của ông được phản ánh trong tác phẩm: “Nước cộng hòa”, “Các đạo luật và Nền chính trị”. Ông là người đầu tiên đạt tới quan niệm giá trị phổ biến, tầm vĩ mô của chính trị và hoạt động chính trị, tiêu chuẩn của nền chính trị đích thực.
– Khi bàn về khái niệm chính trị, Platôn cho rằng chính trị là sự thống trị của trí tuệ tối cao, là nghệ thuật dẫn dắt xã hội con người. Chính trị tự phân chia thành pháp lý, hành chính, tư pháp, ngoại giao… Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị. Chính trị phải là sự chuyên chế, tất cả các cá nhân phải phục tùng quyền uy. Tự do chỉ dẫn đến hỗn loạn, gây tai họa cho đời sống công dân.
– Xã hội lý tưởng của Platôn là xã hội được trị vì bởi sự thông thái. Ông chia xã hội thành ba hạng người:
+ Các nhà triết học thông thái đảm nhận vai trò lãnh đạo, cai trị, quản lý nhà nước.
+ Tầng lớp chiến binh bảo vệ an ninh xã hội.
+ Tầng lớp nông dân, thợ thủ công làm ra của cải, vật chất, đảm bảo cuộc sống cho xã hội.
– Công lý là ở chỗ, mỗi hạng người làm hết trách nhiệm của mình, hoạt động phù hợp với chức năng của mình. Theo Platôn, điều kiện và cơ sở để duy trì một xã hội được cai trị bởi những người thông thái là phải thực hiện cộng đồng về tài sản và hôn nhân. Ông chủ trương xóa bỏ sở hữu cá nhân (vì nó là nguồn gốc sinh ra cái ác) và tình yêu gia đình, thay vào đó là những tổ chức cộng đồng. Như vậy, xóa cá nhân vì một xã hội lý tưởng, Platôn đã biến phương tiện thành mục đích. Đó là khởi nguồn của “chủ nghĩa cộng sản không tưởng”. Ông cho rằng, khi lãnh đạo nhà nước, cần gạt sang một bên ý chí cá nhân, trước tiên phải dựa vào tôn giáo và pháp luật. Sự chuyển hóa quyền lực trong xã hội là do có sự đối kháng về quyền lợi và những vận động về chính trị.
=> Quan điểm chính trị của Platôn còn nhiều mâu thuẫn: vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, vừa muốn duy trì chế độ đẳng cấp. Ông đưa ra mô hình xã hội lý tưởng và công lý nhưng đồng thời lại bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc, chủ nô. Tuy nhiên, ông đã có những quan niệm cụ thể và hệ thống về chính trị và sự phát triển của xã hội nói chung.
4. Arixtốt (384 – 322 TCN)
– Arixtốt là nhà bác học vĩ đại của văn minh Hy Lạp. Trong hai công trình nghiên cứu và chính trị là “Chính trị” và “Hiến pháp Aten”, ông đã tổng kết và phát triển tài tình các kết luận của các bậc tiền bối về nguồn gốc và bản chất, hình thức và vai trò của nhà nước pháp quyền.
– Theo Arixtốt, nhà nước xuất hiện tự nhiên, được hình thành do lịch sử. Con người là “động vật chính trị” Bản tính của con người là sống trong cộng đồng. Hình thức tổ chức cuộc sống cộng đồng trong một thể chế xã hội nhất định được gọi là nhà nước. Nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước và sự tiếp tục chính quyền trong gia đình. Nhà nước không phải là kết quả của sự thỏa thuận giữa mọi người với nhau dựa trên ý chí của họ. Nó được phát triển từ gia đình và làng xã. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố chính quyền nhà nước. Thể chế chính trị điều hành, quản lý xã hội về ba phương diện: lập pháp, hành pháp và phân xử. Sứ mệnh của nhà nước là lãnh đạo tập thể các công dân, quan tâm tới các quyền chung của công dân, làm cho mọi người sống hạnh phúc. Điều đó lại chính là bản chất và chức năng của pháp luật. Công lý chính là hành động một cách công bằng theo pháp luật. Thông qua pháp luật, các quyền chung của công dân được thể hiện và củng cố.
– Ông cho rằng, không một loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù hợp với tất cả mọi thời đại và các nước. Ông phân loại chính phủ theo tiêu chuẩn số lượng (người cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự cầm quyền). Kết hợp hai mặt đó, có thể sắp xếp chính phủ theo hai loại: chính phủ chân chính là: quân chủ, quý tộc, cộng hòa, chính phủ biến chất là: độc tài, quả đầu, dân trị. Ông nhiệt thành ủng hộ chế độ quân chủ, coi như hình thức tổ chức nhà nước thần thánh và ưu việt nhất.
=> Tư tưởng chính trị của Arixtốt chứa đựng những giá trị tích cực sau:
– Con người có khuynh hướng tự nhiên gắn bó với nhau thành xã hội. Do đó, con người là động vật công dân, động vật chính trị, sống có trách nhiệm với cộng đồng.
– Chính trị là làm sao trong đời sống cộng đồng, cái chung cao cả hơn cái cá nhân riêng biệt, con người sống ngày càng tốt hơn.
– Chính trị phải giáo dục đạo đức và phẩm chất cao thượng cho công dân.
– Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội của mọi công dân.
– Chế độ dân chủ sẽ chuyển thành chế độ mị dân hoặc độc tài nếu: ý chí cá nhân thay thế pháp luật, chế độ bị trao cho những tên nịnh bợ, gian xảo, ham quyền lực…
– Không thể hoạt động chính trị nếu bị dục vọng của cải chi phối và sự dốt nát chế ngự.
– Chế độ quân chủ là hình thức sơ khai vì không có ai uy tín bằng lãnh tụ chiến thắng. Nhưng khi xã hội phát triển, người tốt, người giỏi có nhiều thì chế độ chính trị phải thay đổi.
Mặc dù hạn chế bởi mục tiêu giai cấp, bởi quan điểm cổ đại hẹp hòi về quyền tự do cá nhân cho những người nô lệ và lao động… song với nhãn quan uyên thâm và sâu sắc, tư tưởng chính trị của Arixtốt có ý nghĩa là sự tổng hợp và khái quát hóa những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại.
Câu 5: Trình bày sự hình thành và phát triển của thuyết: “Tam quyền phân lập”?
Trả lời:
Tam quyền phân lập hay còn hiểu theo nghĩa phân chia quyền lực là một mô hình quản lý nhà nước với mục tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm quyền, bảo vệ tự do và công bằng pháp luật. Mô hình và khái niệm này được biết đến từ lâu, ít nhất là từ thời La Mã cổ đại và được thể chế hóa trong hiến pháp hiện đại của nhiều quốc gia, trong đó có Hiến pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp CHLB Đức hay các nước cộng sản khác. Trong mô hình này, quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp được tách biệt và giao cho 3 cơ quan độc lập khác nhau thực hiện và qua đó ràng buộc, kiểm tra và giám sát hoạt động lẫn nhau. Theo thể chế này, không một cơ quan hay cá nhân nào có quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị của một quốc gia.
Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên cho mọi hành vi độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước. Vì vậy, muốn chống chế độ này, một lý thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết phân chia quyền lực.
Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây mà điển hình là nhà nước cộng hòa La Mã. Cộng hòa La Mã hàng năm đã bầu lãnh sự đã được lựa chọn bởi một cơ thể của công dân, Thượng viện quản lý pháp luật, nghị định được ban hành bởi các viên chức lãnh sự và ban hành nghị quyết về những vấn đề quan trọng và cũng tham gia vào các quan hệ đối ngoại, và các hội đồng đã được thực hiện bởiCông dân có vai trò khác nhau trong chính phủ.Các viên chức lãnh sự phụ trách của chính phủ và của quân đội. Có 300 công dân Thượng viện khuyên họ ở tất cả các lần. Trong lịch sử của Cộng hòa La Mã Thượng viện luôn luôn là nhóm mạnh nhất. Chỉ có Đại hội có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận của pháp luật và chỉ có ứng cử đại biểu được bầu chọn cho văn phòng của lãnh sự.Hiến pháp của La Mã luôn luôn là một khái niệm cơ bản của kiểm tra và cân bằng.
Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ 17 – 18, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là John Locke và C.L. Montesquieu.
John Locke (1632 – 1704), một nhà triết học người Anh, ông là người đầu tiên khởi thảo ra thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền, và được thể hiện trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về Chính quyền.” Về quyền lực nhà nước, ông cho rằng “chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp, mà tất cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những cái phụ thuộc vào nó.” Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất quyền lực nhà nước với quyền lập pháp.
Ông chia quyền lực nhà nước thành các phần: lập pháp, hành pháp và liên minh. Theo đó, quyền lập pháp là quyền lực cao nhất trong nhà nước, và phải thuộc về nghị viện; nghị viện phải họp định kỳ thông qua các đạo luật, nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vị, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm không cho phép vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua thực hiện quyền liên minh, tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.
Những luận điểm phân quyền của J. Locke đã được nhà khai sáng người Pháp, C.L. Montesquieu (1689 – 1775) phát triển. Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền, và sau này khi nhắc tới thuyết phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của ông.
Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ. Chế độ quân chủ chuyên chế là một tổ chức quyền lực tồi tệ, phi lý, vì: nhà nước tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung, nhưng trong chế độ chuyên chế nó lại biểu hiện ý chí đặc thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và nhu cầu pháp luật. Montesquieu nhận thấy pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân ngành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy nhất là trái với bản chất của nó; gắn với bản chất chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền. Vì vậy việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời, là sự thanh toán chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu, một khi quyền lực tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ chuyên chế vẫn còn.
Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã lập luận tinh tế và chặt chẽ tính tất yếu của việc tách bạch các nhánh quyền lực và khẳng định: “Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự.” Ta có thể nhận ra sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi tách quyền lực xét xử – quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác.
Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và đảm bảo quyền tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì sẽ không có gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết.”
Tóm lại, theo Montesquieu, cách thức tổ chức nhà nước của một quốc gia là: “Cơ quan lập pháp trong chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng buộc phần kia do năng quyền ngăn cản hỗ tương. Cả hai phần sẽ bị quyền hành pháp ràng buộc và quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc.”
Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn còn điểm hạn chế là bảo thủ phong kiến, đòi hỏi đặc quyền cho tầng lớp quý tộc. Nhưng nó vẫn là nền móng cho tư tưởng phân chia quyền lực sau này, có ảnh hưởng sâu sắc đến những quan niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức của các nhà nước tư bản. Ví dụ như đa số Hiến pháp của các nhà nước tư bản hiện nay đều khẳng định nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực nhà nước. Như điều 10 Hiến pháp liên bang Nga quy định: “Quyền lực nhà nước ở Liên bang Nga được thực hiện dựa trên cơ sở của sự phân quyền thành các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan của các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập.” Điều 1 của Hiến pháp Ba Lan cũng trực tiếp khẳng định việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Tiếp nối Montesquieu, J.J. Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội,” đã đưa ra những quan điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Rousseau (1712 – 1778) chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước nằm trong tay cơ quan quyền lực tối cao tức toàn thể công dân trong xã hội. Nhưng ông lại chỉ ra rằng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp và quyền hành pháp, giao chúng vào tay cơ quan quyền lực tối cao và chính phủ là cách thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả cho nhà nước, cũng như ngăn chặn được xu hướng lạm quyền. Ngoài ra ông còn nêu lên vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp trong việc đảm bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như cho sự cân bằng giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao, chính phủ và nhân dân. Nhưng cách phân quyền của Rousseau không giống với Locke và Montesquieu, bởi ông luôn khẳng định một điều duy nhất rằng: “những bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào quyền lực tối cao” và “mỗi bộ phận chỉ thực hiện ý chí tối cao đó” mà thôi.
Câu 6: Trình bày nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà nước, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Bản chất của chính trị, đấu tranh chính trị và cách mạng chính trị:
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, chính trị luôn mang bản chất giai cấp. Bản chất giai cấp của chính trị được quy định bởi lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của giai cấp. Chính trị ra đời và tồn tại gắn liền với xã hội có phân chia giai cấp. Khi cơ sở kinh tế làm cho nhà nước mất đi, giai cấp không còn, khi đó, chính trị cũng không còn cơ sở tồn tại.
a. Chính trị có tính dân tộc:
Vấn đề dân tộc, đấu tranh giải phóng dân tộc, chống kỳ thị dân tộc là nội dung quan trọng của hoạt động chính trị. Trong đấu tranh chính trị, việc xử lý quan hệ giai cấp – dân tộc được đặt ra thường xuyên. Không thể tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp mà quên vấn đề dân tộc, và ngược lại. Nếu tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp sẽ dẫn tới chủ nghĩa biệt phái, nếu tuyệt đối hóa vấn đề dân tộc thì sẽ rơi vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
b. Chính trị có tính nhân loại:
Vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc gắn liền với vấn đề nhân loại. Chính trị hiện đại luôn coi trọng vấn đề nhân loại, giải quyết vấn đề nhân loại trên cơ sở quan điểm giai cấp. Giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội là những vấn đề quan hệ gắn bó mật thiết với nhau của nền chính trị vô sản, trở thành xu hướng phát triển của chính trị nhân loại.
– Các nhà kinh điển Mácxít chỉ ra rằng, đấu tranh chính trị là đỉnh cao của đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là hiện tượng tất yếu của lịch sử. Cuộc đấu tranh này trải qua ba giai đoạn, phản ánh ba trình độ phát triển khác nhau của đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác, từ sự thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt tức thời đến nhận thức và hiện thực hóa sứ mệnh lịch sử của giai cấp.
+ Trình độ thấp nhất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh kinh tế. Thông qua đấu tranh kinh tế, đã giác ngộ công nhân về lợi ích giai cấp. Tuy là hình thức thấp nhất, nhưng đấu tranh kinh tế lại rất quan trọng, nó tạo ra môi trường thực tiễn, giúp giai cấp công nhân giác ngộ vai trò sứ mệnh lịch sử của mình. Đấu tranh kinh tế mà không phát triển lên thì phong trào sẽ có nguy cơ dừng lại ở chủ nghĩa kinh tế thuần túy, sa vào “chủ nghĩa công đoàn”. Thực tế, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã có thời kỳ dừng lại ở mục tiêu kinh tế, làm xuất hiện phong trào “công đoàn vàng” và tầng lớp “công nhân quý tộc”. Giai cấp tư sản ý thức rõ điều này nên tìm mọi cách phân hóa và biến một bộ phận công nhân thành những “công nhân quý tộc” phục vụ giai cấp tư sản ngay trong lòng phong trào công nhân.
+ Giai đoạn thứ hai của đấu tranh giai cấp là đấu tranh tư tưởng lý luận. Các nhà kinh điển chỉ ra rằng, giai cấp vô sản là giai cấp triệt để cách mạng không phải vì nó là giai cấp nghèo nhất, mà trước hết vì lợi ích của nó với lợi ích của giai cấp tư sản, nó đại diện cho phương thức sản xuất cách mạng. Các ông cũng chỉ rõ kẻ thù của giai cấp vô sản là toàn bộ giai cấp tư sản quốc tế, chứ không phải dừng lại ở một vài nhà tư sản cá biệt. Vì vậy, giai cấp vô sản sẽ không thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình là giải phóng toàn xã hội thoát khỏi áp bức, bóc lột tư bản, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa nếu như nó không được vũ trang bằng tư tưởng lý luận cách mạng là chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong cuộc đấu tranh tư tưởng, giai cấp vô sản không những phải đấu tranh chống mọi thứ lý luận phản động của giai cấp tư sản mà còn phải đấu tranh chống trào lưu tư tưởng cơ hội chủ nghĩa dưới mọi màu sắc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đấu tranh tư tưởng đòi hỏi các đảng vô sản phải tổng kết đấu tranh của quần chúng, nâng lên trình độ lý luận. Có như vậy, các đảng cộng sản mới làm tròn vai trò tiên phong của mình.
+ Giai đoạn thứ ba (cao nhất) của đấu tranh giai cấp là đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ cơ bản của đấu tranh chính trị là thủ tiêu bộ máy nhà nước cũ, thiết lập nền chuyên chính mới và sử dụng chuyên chính đó để xây dựng xã hội mới. Lúc này, vấn đề giành quyền lực giành quyền lực nhà nước được đặt ra một cách trực tiếp. Đấu tranh chính trị gắn liền với sự bùng nổ cách mạng xã hội.
Muốn đạt tới đấu tranh chính trị thì giai cấp vô sản phải có lý luận, có đội tiên phong của giai cấp mình – Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa Mác – Lê nin cho rằng cách mạng chính trị thực chất là cách mạng thay đổi thể chế chính trị. Cách mạng vô sản thay thể chế tư sản bằng thể chế vô sản (chuyên chính vô sản). Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền.
Theo C.Mác, bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào cũng có tính chất chính trị vì nó trực tiếp ảnh hưởng tới vấn đề quyền lực chính trị, trực tiếp tuyên chiến với thể chế cũ. Mặt khác, bất cứ một cuộc cách mạng chính trị nào cũng có tính chất xã hội vì nó đặt vấn đề cải tạo các quan hệ xã hội cũ, xây dựng các quan hệ xã hội mới trên mỗi bước tiến của cách mạng.
=> Như vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra ba hình thức đấu tranh giai cấp cơ bản và khẳng định các hình thức này có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng và bổ sung cho nhau. Đấu tranh tư tưởng và đấu tranh kinh tế phục vụ đấu tranh chính trị. Đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất, quyết định thắng lợi cuối cùng và căn bản của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản.
2. Lý luận về tình thế và thời cơ cách mạng:
a. Tính thế cách mạng:
Đương thời, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã phân tích “giải phẫu” cơ thể xã hội chủ nghĩa tư bản châu Âu thế kỷ XIX. Các ông rút ra nhận xét: mẫu thuẫn giai cấp không thể điều hòa giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản thất yếu sẽ dẫn đến cách mạng. Nhưng tình thế châu Âu ở nửa sau thế kỷ XIX cho thấy rõ là các thế lực phong kiến phản động vẫn tồn tại mặc dù đã xuy yếu, có xu hướng tư sản hóa. Giai cấp tư sản coi phong kiến và vô sản là kẻ thù. Nhưng vì lợi ích ích kỷ của mình, giai cấp tư sản đã thỏa hiệp với giai cấp phong kiến, chống lại giai cấp vô sản cách mạng. Trong khi đó, giai cấp vô sản chưa trưởng thành, luôn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa cải lương. Vì thế, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng một cuộc cách mạng vô sản trực tiếp chỉ có thể nổ ra được khi mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản đạt đến độ chín muồi gay gắt, nó phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi sự phù hợp của quan hệ sản xuất. C.Mác viết rằng: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chngs, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có … Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”. Do đó, nếu như cách mạng nổ ra mà lực lượng sản xuất phát triển chưa đầy đủ thì cuộc cách mạng đó chỉ là hình thức mà thôi.
Đến Lê nin, ông nhấn mạnh các quan hệ chủ quan và khách quan trong tình thế cách mạng. Theo ông, thì cần chú ý đến lực lượng sản xuất (yếu tố khách quan) và sự khủng hoảng xã hội (yếu tố chủ quan) vì đó là những nhân tố phản ánh trạng thái xã hội, làm xuất hiện tình thế cách mạng. Căn cứ vào đó, Lênin đưa ra ba dấu hiệu của tình thế cách mạng:
– Giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ, chính trị rơi vào khủng hoảng dường như không còn kiểm soát được xã hội. Trong tình hình đó, giai cấp thống trị buộc phải áp dụng biện pháp đàn áp – đàn áp cách mạng, đẩy xã hội tới đối đầu.
– Quần chúng bị áp bức rơi vào tình trạng bần cùng, sự chịu đựng đã đến giới hạn cuối cùng, không thể chịu đựng hơn được nữa, buộc phải đi đến một hành động có tính lịch sử.
– Tầng lớp trung gian sẵn sàng ngả về phía quần chúng cách mạng, đứng về phía tiên tiến cách mạng.
=> Khi xã hội xuất hiện ba dấu hiệu tình thế cách mạng này thì, theo Lênin, cách mạng ở trong khả năng rất gần.
b. Thời cơ cách mạng:
Nhưng cách mạng muốn nổ ra thì phải có thời cơ cách mạng. Thời cơ cách mạng là sự phát triển logic của tình thế cách mạng, khi cả ba dấu hiệu của tình thế cách mạng phát triển đến đỉnh điểm, xã hội khủng hoảng trầm trọng. Theo Lênin, tình thế cách mạng là khách quan, còn thời cơ cách mạng (ngoài yếu tố khách quan) là yếu tố chủ quan, đòi hỏi sự nhạy bén, quyết đoán của chủ thể cách mạng.
Thời cơ cách mạng gắn liền với các sự kiện, những tình huống có khả năng đẩy cách mạng đến bước ngoặt quyết định, nó gắn với thời điểm cụ thể, tức là gắn với không gian, thời gian chính trị. Lênin cũng chỉ rõ rằng thời cơ xuất hiện rất nhanh và trôi đi cũng rất mau. Sau đó, cách mạng có nổ ra hay không và có thành công hay không sẽ phụ thuộc phần cực kỳ quan trọng ở vai trò của chủ thể, ở sự chuẩn bị đầy đủ và toàn diện cho cách mạng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga do Đảng Bônsêvích và Lênin lãnh đạo cũng như sự thành công của Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là những bài học thắng lợi điển hình của nghệ thuật xử lý tình thế và thời cơ cách mạng.
3. Phương thức giành chính quyền và nghệ thuật thỏa hiệp:
Các nhà kinh điển Mácxít chỉ ra hai phương thức giành quyền lực chính trị: phương thức giành chính quyền bằng bạo lực và phương thức giành chính quyền bằng hòa bình.
– Phương thức giành chính quyền bằng bạo lực là phương thức phổ biến trong lịch sử. Cần lưu ý rằng, quan điểm Mác xít không đồng nhất bạo lực với chiến tranh. Bạo lực ở đây bao gồm cả sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, là gắn liền sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần, kết hợp giữa kinh tế với chính trị, giữa chính trị với quân sự, giữa chính trị với văn hóa…
– Việc giành chính quyền bằng con đường hòa bình rất quý và rất hiếm. Rất quý vì không đổ máu, rất hiếm vì xưa nay chưa có tiền lệ, chưa xảy a. Các nhà kinh điển cũng đồng thời đưa ra chỉ dẫn có tính phương pháp: khả năng giành chính quyền bằng hòa bình xuất hiện, dù là mầm mống, thì cũng hết sức tận dụng. Còn khi khả năng ấy không còn nữa thì giai cấp vô sản không được mơ hồ, ảo tưởng, mà phải dứt khoát và nhanh chóng chuyển đổi phương thức đấu tranh.
Hiện nay, vấn đề phương thức đấu tranh giành chính quyền đang là tiêu điểm của cuộc đấu tranh tư tưởng giữa những người Mác xít và những kẻ cơ hội mọi màu sắc.
Đây là vấn đề khoa học, đồng thời cũng là vấn đề nghệ thuật để xử lý tình huống. Ở đây, trong việc lựa chọn phương pháp nảy sinh vấn đề “thỏa hiệp”. Thỏa hiệp được đặt ra như một yêu cầu thực tiễn chứ không phải ý muốn chủ quan, do tương quan lực lượng ở phía cách mạng chưa đủ mạnh. Lênin chỉ ra hai loại thỏa hiệp: thỏa hiệp có nguyên tắc và thỏa hiệp vô nguyên tắc:
– Thỏa hiệp có nguyên tắc là loại thỏa hiệp không bao giờ xa rời mục tiêu, nhưng biện pháp, cách thức tiến hành có thể thay đổi, thậm chí trong những hoàn cảnh cụ thể có thể phải hy sinh một số lợi ích trước mắt để bảo vệ mục tiêu lâu dài. Sự kiên định mục tiêu về chiến lược, còn mềm dẻo về sách lược là sự thỏa hiệp có nguyên tắc. Chẳng hạn như: Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vận dụng nó theo phương châm “”Dĩ bất biến ứng vạn biến” bằng việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 06-03-1946 với Pháp để bảo toàn lực lượng, sau đó ngày 19-12-1946 đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến khi toàn dân toàn quân đã sẵn sàng đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc.
– Thỏa hiệp vô nguyên tắc về thực chất là sự đầu hàng, bán rẻ phong trào vì một lợi ích hẹp hòi trước mắt, sớm muộn sẽ rơi vào hàng ngũ kẻ thù của cách mạng. Goocbachop, Tổng thống Liên Xô (cũ) vì lợi ích cá nhân đã bán rẻ phong trào cách mạng, đi hết từ nhân nhượng này đến nhân nhượng khác và cuối cùng làm sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.
4. Xây dựng thể chế sau thắng lợi của cách mạng chính trị:
Đây là một hệ vấn đề rất lớn, cũng là trọng tâm tư tưởng chính trị của C.Mác, Ph. Ăngghen và Lênin. Nó bao gồm một số nội dung sau:
– Xác lập cơ sở kinh tế – xã hội của thể chế mới. Đó là việc xác lập quan hệ sản xuất mới – thay sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng sở hữu xã hội, tạo cơ sở xoa bỏ mọi áp bức, bóc lột, đồng thời phát triển lực lượng toàn xã hội. Lênin cho rằng, khi bắt tay vào xây dựng chế mới thì vấn đề chính trị lớn nhất và lý thú nhất là “làm kinh tế”. Xây dựng cơ sở kinh tế đồng thời với việc xây dựng cơ sở xã hội, mở rộng khối liên minh với tất cả mọi người (không phân biệt tôn giáo, thành phần giai cấp…) miễn họ đồng ý với chủ nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển cũng đặc biệt lưu ý phải giải quyết tốt các quan hệ lợi ích bằng cách sử dụng tổng hợp các biện pháp kích thích.
– Đấu tranh chống nạn quan liêu, tham nhũng, hối lộ, thực hành dân chủ. Chủ nghĩa Mác – Lênin luôn coi quan liêu, tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm nhất của chủ nghĩa xã hội và không giờ nương nhẹ cuộc đấu tranh chống quan liêu, hối lộ, thực hành dân chủ rộng rãi. Lênin viết: “Toàn bộ công việc của tất cả các cơ quan kinh tế của chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu… Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó” và “Hiện giờ có ba kẻ thù đang đứng trước mọi người, bất kể người đó làm việc gì, ở cương vị nào… Kẻ thù lớn nhất – tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, kẻ thù thứ hai – nạn mù chứ, kẻ thù thứ ba – nạn hối lộ”. Lênin giải thích rằng: “Nếu còn có thể hối lộ, thì cũng không thể nói đến chính trị được. Trong trường hợp này phải thậm chí cũng không thể nói đến làm chính trị được, vì mọi biện pháp sẽ đều lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn toàn không mang lại kết quả gì cả. Một đạo luật chỉ có thể đưa đến một kết quả xấu hoen, nếu trên thực tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện làm hối lộ còn được dung thứ và được thịnh hành”
Để khắc phục quan liêu độc đoán, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin chủ trương phải thi hành dân chủ rộng rãi trong chính trị và kinh tế, cả trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, đồng thời dân chủ gắn liền với pháp luật. Đặc biệt các ông đề cập rất kỹ nguyên tắc “tập trung dân chủ”, xem tập trung dân chủ là cái bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của thế chế mới đi tới thắng lợi cuối cùng và triệt để là chủ nghĩa cộng sản.
– Đề cập đến thể chế dân chủ vô sản, các nhà kinh điển Mácxít chỉ rõ: Đó là nền dân chủ hơn triệu lần dân chủ tư sản. Các ông cho răng, dân chủ, đó là quyền lực nhân dân, nhân dân phải giành lấy quyền lực đó và tự tổ chức quyền lực đó. Dân chủ còn được xem như một giá trị giải phóng, một thể chế, một hình thức tổ chức nhà nước.
– Về xây dựng đảng cộng sản cầm quyền, chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng đinh rằng, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản phải phát triển thành tự giác, và một trong những yêu cầu quan trọng nhất là giai cấp công nhân phải tổ chức ra chính đảng của mình. Điều đó càng cực kỳ quan trọng sau khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền. Việc xây dựng đảng đạt tầm cao trí tuệ, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức là bảo đảm tiên quyết cho thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Khi đã cầm quyền, nếu đảng thoái hóa, xa dân, phai nhạt về tư tưởng chính trị, biến dạng về đạo đức, lối sống, rạn nứt về tổ chức là nguy cơ trực tiếp cho sự thất bại không tránh khỏi của cách mạng. Bởi vậy, Chủ nghĩa Mác – Lênin thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, vững mạnh về đội ngũ cán bộ chủ chốt của đảng và coi đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước phục vụ nhân dân, phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
5. Chuyên chính vô sản là hình thức tổ chức quyền lực chính trị quá độ đi tới xã hội không còn giai cấp và nhà nước.
Sự thống trị của giai cấp vô sản (tức là chuyên chính vô sản) theo các ông là nhằm:
– Dùng sự thống trị của mình mà từng bước đoạt lấy toàn bộ tư bản vào tay mình.
– Quốc hữu hóa: tập trung tất cả các công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị.
– Phát triển kinh tế: tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất.
– Xóa bỏ nạn người bóc lột người, xóa bỏ áp bức dân tộc.
– Xây dựng quan hệ xã hội mới, tốt đẹp, tự do và phát triển.
Để thực hiện những nhiệm vụ trên, giai cấp vô sản phải nhất thiết trải qua một thời kỳ quá độ chính trị, thời kỳ chuyên chính vô sản. Thích ứng với thời kỳ quá độ – thời kỳ đau đẻ kéo dài, để loại bỏ dần những cái cũ, xây dựng và củng cố dần những cái mới, tạo ra những tiền đề vật chất cho việc hình thành nền chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản không phải là để duy trì sự áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp mà là để thủ tiêu hoàn toàn sự áp bức bóc lột, sự thống trị của giai cấp nói chung, trong đó có giai cấp vô sản.
Lênin khẳng định: Khi nào không còn tình trạng người bóc lột người nữa, khi ấy sẽ không có nhà nước, không có bóc lột.
Vì lẽ đó, chuyên chính vô sản không chỉ là bạo lực, mà nhiệm vụ chủ yếu của nó – quyết định thắng lợi toàn diện của chủ nghĩa cộng sản, là tổ chức xây dựng. Do đó, nhà nước chuyên chính vô sản đã không còn là nhà nước “theo nguyên nghĩa” mà là “nửa nhà nước”, “nhà nước quá độ” trên con đường đi tới sự “tiêu vong”.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự thống trị của giai cấp công nhân như vậy hoàn toàn cho thấy rõ mục đích của giai cấp công nhân giành quyền lực chính trị về tay mình không phải là để tiếp tục duy trì sự thống trị, thay thế áp bức này bằng một áp bức khác mà sự thông trị ấy chỉ là một phương tiện, một điều kiện cần thiết để đi tới hủy bỏ mọi sự thống trị, đi tới giải phóng con người.
Câu 7: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia trong vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào quyền lực nhà nước và hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phải, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực thi những đường lối, những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người.
Là một bộ phận cấu thành của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ: Bản thân Hồ Chí Minh là một “nhà chính trị chuyên nghiệp”. Lĩnh vực chính trị Việt Nam gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc được Hồ Chí Minh để tâm nhiều hơn cả. Chính trị là một lĩnh vực mà Hồ Chí Minh có nhiều sáng tạo độc đáo, nhất là sự sáng tạo ấy có ảnh hưởng tích cực tới cách mạng thế giới, được quốc tế thừa nhận.
Có thể khái quát một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Trong toàn bộ tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta, tư tưởng bao trùm là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tư tưởng đó được Người quán triệt và thể hiện trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đây là hạt nhân cốt lõi nhất trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đồng thời là tư tưởng trọng tâm xuyên suốt toàn bộ hệ thống.
Độc lập dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm những nội dung:
– Dân tộc đó phải thoát khỏi nô lệ (dưới mọi hình thức) bằng con đường cách mạng do chính dân tộc đó tiến hành.
– Dân tộc đó phải có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phải có quyền tự quyết định sự phát triển của dân tộc mình.
– Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự chứ không phải giả hiệu, phải thực hiện các giá trị như tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng đối với nhân dân chứ không phải chỉ là những lời tuyên bố hoa mỹ.
– Độc lập về chính trị phải gắn liền với sự phồn thịnh về mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội.
– Phải tự giành lấy con đường cách mạng, tự lực tự cường và tự trọng. Người cho rằng, một dân tộc không có khả năng ý thức độc lập, tự lực tự cường thì dân tộc đó không xứng đáng được hưởng độc lập.
Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Trong thời đại ngày nay, độc lập dân tộc phải thực sự gắn liền với chủ nghĩa xã hội, trong đó độc lập là tiền đề, là điều kiện để đi đến chủ nghĩa xã hội, còn chủ nghĩa xã hội là bảo đảm chắc chắn nhất, thực chất nhất cho độc lập dân tộc. Điều này bắt nguồn từ bản chất của sự vận động lịch sử mà sau những tìm tòi công phu cùng sự nếm trải thân phận của một người dân mất nước, Hồ Chí Minh đã nhận thức được. Người chỉ rõ rằng, giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản cũng giành độc lập, nhưng sau đó nó quay lại thống trị dân tộc, áp bức nhân dân. Chỉ có giai cấp công nhân sau khi giành độc lập dân tộc thì không chỉ giải phóng mình mà còn giải phóng toàn xã hội. Do đó, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành xu hướng mang tính cách mạng phổ biến của cách mạng thể giới, mang tính quy luật của thời đại. Người khẳng định: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phong này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”. Đó là con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc ta và các dân tộc bị phụ thuộc. Tư tưởng cách mạng đó của Người đã đặt nền tảng vững chắc cho đường lối xuyên suốt toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam.
2. Tư tưởng về đại đoàn kết:
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn trong tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh, trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta và là một nhân tố cực kỳ quan trọng thường xuyên góp phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta qua mọi thời kỳ.
Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh là ở đại đoàn kết toàn dân, ở sự đồng lòng của toàn xã hội. Đoàn kết trên lập trường của giai cấp công nhân, được thể hiện trên mọi phương diện: đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Người chỉ rõ:
“Quan sơn muôn dặm một nhà
Vì trong bốn biển đều là an hem”
Và khẳng định:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Đoàn kết, theo Hồ Chí Minh, phải dựa trên cơ sở có lý, có tình, có nghĩa, đoàn kết là để phát triển, để làm tốt hơn nhiệm vụ cách mạng, cách mạng muốn thắng lợi thì phải đoàn kết, đoàn kết lấy liên minh công – nông – trí thức làm nền tảng, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm điểm quy tụ để đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích.
Chiến lược đoàn kết của Hồ Chí Minh vừa là sự đúc kết và phát huy truyền thống đại đoàn kết của dân tộc ta qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước, vừa thể hiện tinh thần bất hủ của chủ nghĩa Mác – Lênin là “Vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới đoàn kết lại”. Trong sự nghiệp đổi mới hôm nay, Đảng và nhân dân ta hơn bao giờ hết, đã và đang giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng đa phương hóa và đa dạng hóa với tinh thần Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đầu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” vì hòa bình, độc lập, phát triển trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm giải pháp phù hợp giải quyết các vấn đề còn tồn tại và tranh chấp, bảo đảm hòa bình, ổn định, an ninh, hợp tác, và phát triển.
3. Tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân:
Hồ Chí Minh rất chú trọng tới xây dựng Nhà nước kiểu mới – nhà nước dân chủ cộng hòa. Điều mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là tính chất nhà nước. Nhà nước đó có phải là nhà nước của dân hay không? Chế độ dân chủ có phù hợp với chế độ nhà nước hay không?
Người khẳng định rằng: Cách mạng Việt Nam muốn thành công thì không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga. Người quyết định lựa chọn kiểu nhà nước theo chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng không “bê nguyên xi” kiểu nhà nước Xô Viết vào hoàn cảnh nước ta. Người chủ trương lập nhà nước cộng hòa dân chủ (tức là nhà nước dân chủ nhân dân).
Dân chủ có nghĩa là “dân làm chủ”. Hồ Chí Minh quan niệm, giá trị thực chất của dân chủ là phải có cơm ăn, áo mặc, học hành… Người chỉ rõ vai trò động lực của dân chủ, xem dân chủ là chìa khóa của tiến bộ xã hội. Người chủ trương thực hiện dân chủ rộng rãi trong nhân dân, giáo dục nhân dân ý thức chấp hành pháp luật, dân chủ gắn liền với nghĩa vụ của công dân, dân chủ gắn với pháp luật, gắn với tập trung. Hồ Chí Minh phê phán bệnh độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, vô chính phủ.
Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân, bao nhiều quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra, Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Từ quan niệm này, Hồ Chí Minh cho rằng: chế độ dân chủ phù hợp với nhà nước ta. Đó là một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Tính chất nhân dân và bản chất giai cấp của nhà nước ta được Hồ Chí Minh xác định rõ ràng và đích thân Người cùng toàn Đảng, toàn dân, ra sức xây dựng. Người chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam…” và “Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra chính phủ. Chính phủ đó là thật, là chính phủ của toàn dân”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân cũng có nghĩa là dân có quyền kiểm soát nhà nước. Người viết: “Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”. Như vậy, dân được đặt ở vị trí tối thượng và quyền có được bảo đảm trong thực tế không chỉ ở trên lời nói.
Nhà nước của dân, theo quan niệm của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ dân không chỉ có quyền giám sát, kiểm tra mà còn có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”. Về bản chất giai cấp của nhà nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền, nhà nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, mang tính chất dân chủ nhưng dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công nhân – nông dân – trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quản lý xã hội bằng hiến pháp và pháp luật, thực hiện sự thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rõ ràng.
Cùng những quan điểm trên, Hồ Chí Minh còn nêu lên quan điểm phục vụ của cán bộ nhân viên nhà nước là: Việc gì có lợi cho dân, thì làm cho kỳ được. Việc gì có hại cho dân, thì phải hết sức tránh. Chú ý thật sự đến quyền lợi của nhân dân thì trước hết phải quan tâm đến quyền lợi thiết thực hàng ngày của dân, “làm cho dân có ăn, làm dân cho có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”, chống đặc quyền đặc lợi và các tiêu cực khác, giữ bộ máy nhà nước thật trong sạch. Người thường xuyên nhắc nhở rằng, Nhà nước ta không phải bộ máy áp bức dân, cán bộ viên chức nhà nước không phải là những người “làm quan cách mạng” bóc lột nhân dân, kéo bè cánh để thu vén lợi ích cá nhân. Người căn dặn, cán bộ phải tôn trọng lợi ích chính đáng của nhân dân, thực hành “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, nếu phạm khuyết điểm thì cả quyết công khai sửa lỗi của mình. Người nói: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lỗi lầm trên này thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức tiến bộ thêm. Ai đã phạm những lầm lỗi này, thì phải hết sức sửa chữa, nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung.” Người nhấn mạnh: “Cơ quan của chính phủ tư toàn quốc cho đến các làng xã đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã trở thành nguyên tắc xuyên suốt, thuộc về bản chất của nhà nước ta từ năm 1945 đến này và mãi về sau này, chừng nào xã hội còn giai cấp và nhà nước.
4. Lý luận về Đảng cầm quyền:
Phát triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về đảng chính trị nói chung, đảng của giai cấp công nhân nói riêng, Hồ Chí Minh luôn coi xây dựng Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, là nhân tố quyết định trước hết đối với mọi thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chung, ngoài thì liên lạc với dân tộc vị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công cũng như có người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm nòng cốt, trong đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có chí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”
Theo cách thể hiện của Hồ Chí Minh, thì “đảng cách mệnh” có nghĩa là “đảng của giai cấp vô sản”, “đội tiên phong của vô sản giai cấp”, xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc về đảng kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho tổ chức và mọi hoạt động của Đảng. Như vậy, bản chất giai cấp của đảng đã được Hồ Chí Minh khẳng định. Không chỉ như vậy, theo quan điểm của Người thì cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta thì “quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một”. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự hình thành một Đảng Cộng sản ở Việt Nam vừa quán triệt đầy đủ học thuyết Mác – Lênin về Đảng Cộng sản, vừa phù hợp với hoàn cảnh một nước thuộc địa lạc hậu chậm phát triển, nơi có truyền thống đấu tranh yêu nước lâu đời của nhân dân, nơi số lượng giai cấp công nhân còn ít ỏi nhưng đã có mối quan hệ chặt chẽ trong phong trào yêu nước ngay từ đầu. Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam.
Ở Việt Nam, quan điểm trên của Hồ Chí Minh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc trong lịch sử, đối với việc xây dựng củng cố và tăng cường khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đối với việc tăng cường lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiên phong đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, đối với việc giải quyết các vấn đề mối quan hệ giữa Đảng – giai cấp – dân tộc cả trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
5. Phương pháp cách cách mạng:
Cũng như các nhà kinh điển, bản thân Hồ Chí Minh chưa đưa ra một định nghĩa về phương pháp cách mạng, song Người là bậc thầy về phương pháp cách mạng trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn cách mạng, trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Qua các tác phẩm của Người, những tư tưởng về cách lãnh đạo, cách tổ chức, cách làm cách học. cách vận động nhân dân, cách thuyết phục kẻ thù, cũng như cách tiến cách lùi trong đánh giặc, cách xây dựng đất nước cũng như cách bảo vệ đất nước… Tất cả đã toát lên “linh hồn và nội dung” của một nội dung hoàn chỉnh phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh vừa là cách mạng vừa là nghệ thuật mang tính thực tiễn sâu sắc. Có những phương pháp thuộc từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng, có những phương pháp chung được vận dụng cho toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.
Phương pháp cách mạng Việt Nam là phương pháp cách mạng vô sản được vận dụng và phát triển một cách sáng tạo vào một nước thuộc địa nửa phong kiến. Các biện pháp, bước đi thích hợp với hệ thống các nguyên tắc Hồ Chí Minh nhằm định hướng, điều chỉnh hành động. Chủ thể hành động là các lực lượng cách mạng, trong đó, giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo, quần chúng nhân dân là lực lượng tiến hành cách mạng. Mục tiêu cách mạng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Có thể khái quát một hệ thống các phương pháp cách mạng chung, cơ bản của Hồ Chí Minh như sau:
– Xuất phát từ thực tế Việt Nam, lấy cải tạo biến đổi hiện thực Việt Nam làm mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng.
– Thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân, kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
– Dĩ bất biến ứng vạn biến
– Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời, thế và lực.
– Biết thắng từng bước, biết phát động và biết kết thúc chiến tranh.
– Kết hợp các phương pháp đấu tranh cách mạng một cách sáng tạo.
=> Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” cũng như toàn bộ hệ thống tư tưởng của người là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điểu kiện Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó đã và đang biến thành lực lượng vật chất hùng hậu và là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Trải qua bao khúc quanh của lịch sử và những biến cố khắc nghiệt của thời đại, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng chính trị của người nói riêng vẫn có trong hành trang của dân tộc ta đi tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta.
Ngày nay, chúng ta có thể khẳng định rằng việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh là học tập tinh thần cách mạng, khoa học và nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh, là nắm vững lập trường, quan điểm và phương pháp của Hồ Chí Minh để xử trí trước mọi việc.
Câu 8: Quyền lực chính trị là gì? Phân tích sự hình thành quyền lực chính trị và sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước?
Trả lời:
1. Quyền lực chính trị là gì?
Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội nhằm thực hiện sự thống trị chính trị, là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình chủ yếu thông qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
2. Sự hình thành quyền lực chính trị?
Công cụ lao động của con người, lực lượng sản xuất của xã hội nằm trong quá trình biến đổi và phát triển không ngừng. Sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động, của lực lượng sản xuất dẫn tới đòi hỏi phải biến đổi về chất quan hệ sản xuất hiện tồn. Quá trình này đưa tới sự xuất hiện các nhóm quan hệ sản xuất mới về mặt giai cấp, làm xuất hiện đối kháng mới về mặt lợi ích, về mặt giai cấp – xã hội. Kết quả là lực lượng chính trị mới tương ứng ra đời như là chủ thể hay là đại diện cho chủ thể của các lợi ích giai cấp mới đó. Và điều này đưa tới một sự cọ xát, sự đụng độ giữa các lực lượng chính trị mới với lực lượng chính trị cũ (nhất là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền). Dần dần hay nhanh chóng, sớm hay muộn thì lực lượng chính trị mới sẽ vươn lên để tự khẳng định mình về mặt nhà nước. Khi mà lực lượng chính trị mới buộc nhà nước hiện tồn phải thừa nhận nó về mặt pháp lý là nó đã giành được quyền tồn tại về mặt pháp lý, và như thế, quyền lực chính trị của giai cấp mới (hay của nhóm xã hội mới về mặt giai cấp) đã được thừa nhận về mặt nhà nước, trong khuôn khổ của nhà nước hiện tồn. Lúc đó, người ta nói rằng lực lượng chính trị của nhóm xã hội mới về mặt giai cấp (hay của giai cấp mới) đã được hình thành.
Thực chất của quá trình hình thành quyền lực chính trị là quá trình hình thành của một lực lượng xã hội mới về mặt giai cấp và sự vươn lên của nó (trước hết là trong khuôn khổ của pháp luật hiện tồn) nhằm giành quyền chính trị cho nó.
3. Sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị, là bộ phận cơ bản của quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Trong xã hội có giai cấp và còn đối kháng giai cấp, về cơ bản tồn tại hai quyền lực chính trị:
– Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị (quyền lực nhà nước)
– Quyền lực chính trị của các giai cấp và các nhóm xã hội không ở địa vị thống trị. Nhóm quyền lực thứ hai này có thể chia thành hai phân nhóm nhỏ hơn:
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp và các tầng lớp xã hội tuy có lợi ích khác biệt (đối lập) nhưng không đối kháng với lợi ích cơ bản của giai cấp hay tầng lớp cầm quyền. Xét về bản chất thì nhóm quyền lực này vẫn nằm trong cùng một phạm trù với quyền lực chính trị của nhóm cầm quyền, và vì thế, không có sự khác biệt về chất với quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Và do vậy, nó vẫn tồn tại dường như trong sự “đối lập một cách dung hòa” với quyền lực nhà nước hiện tồn. Cái gọi là nền chính trị “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” ở các nước tư bản hiện đại là nền chính trị với các lực lượng chính trị và các quyền lực chính trị khác nhau nhưng lại thuộc cùng một phạm trù này mà thôi, chứ không hề có nền “đa nguyên chính trị, đa đảng chính trị đối kháng”.
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp hay các tầng lớp xã hội có lợi ích đối kháng với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Về bản chất, nhóm này đối kháng với nhà nước hiện tồn, và vì vậy, đó là đối tượng phải bị trấn áp, phải được xóa bỏ trong nhà nước ấy. Như vậy, phân nhóm quyền lực chính trị này sẽ có một trong hai kết cục sau đây trong sự vận động của nó:
- Hoặc là nó sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực nhà nước hiện tồn.
- Hoặc là nó sẽ ngày càng mạnh lên, bất chấp sự trấn áp của nhà nước hiện tồn, cho tới lúc nó đủ sức lật đổ quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, xóa bỏ quyền lực nhà nước và đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp ấy, thiết lập bộ máy nhà nước mới dùng vào việc tổ chức lại xã hội theo cách mới phù hợp với lợi ích giai cấp của nó. Khi đó, người ta nói quyền lực chính trị đã chuyển hóa thành quyền lực nhà nước.
– Ngoài hai hình thức vận động cổ điển này, còn có hình thức đảo chính trung tính nhằm giành giật và chuyển giao quyền điều khiển nhà nước giữa các nhóm xã hội khác nhau trong nội bộ giai cấp cầm quyền vẫn thường thấy ở nửa cuối thế kỷ XIX ở Liên Xô và Đông Âu. Đây cũng là một hình thức và một bài học chính trị về quá trình chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước bất lợi cho giai cấp công nhân mà các thể chế chống chủ nghĩa xã hội đang cố gắng thực hiện trong chiến lược “diễn biến hòa bình” phản cách mạng của chúng hiện nay.
Câu 9: Đảng chính trị là gì? Trình bày vai trò của Đảng chính trị?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Đảng chính trị là gì:
Đảng chính trị là một hiện tượng đặc thù của xã hội có phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong sự phát triển của xã hội loài người, đặc biệt là ở thời đại ngày nay, đảng chính trị – yếu tố cơ bản của hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, của chế độ chính trị và xã hội công dân – ngày càng thể hiện vai trò to lớn là công cụ tập hợp giai cấp của một giai cấp, tổ chức lãnh đạo đấu tranh giai cấp vì mục tiêu giành, giữ, tổ chức, sử dụng quyền lực nhà nước và định hướng cho sự phát triển.
2. Vai trò của đảng chính trị
a. Đảng chính trị là nhân tố tác động:
Là bộ phận tích cực nhất, có tổ chức nhất của giai cấp, đảng chính trị được lập ra để thực hiện lợi ích, mục đích giai cấp, nắm quyền lực nhà nước. Như vậy, vai trò của đảng chính trị (vai trò cách mạng, tiến bộ hay bảo thủ, phản động) tùy thuộc vào địa vị lịch sử mà đảng chính trị đó thực hiện. Trong lịch sử tồn tại và phát triển của các đảng chính trị, có đảng đóng vai trò tiến bộ cách mạng, như đảng Mácxít – Lêninnit, có đảng thể hiện sự bảo thủ, phản động như các đảng địa chủ, nông dân…, cũng có đảng chính trị, ở thời kỳ này đóng vai trò cách mạng, tiến bộ, còn ở thời kỳ khác lại bảo thủ, phản động. Điều này tùy thuộc vào bản chất của giai cấp mà đảng đó đại diện. C. Mác đã thể hiện tư tưởng đó trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”: “Ở Pháp, những người cộng sản liên hợp với Đảng Dân chủ – xã hội chủ nghĩa chống giai cấp tư sản bảo thủ và cấp tiến… Ở Đức, Đảng Cộng sản đấu tranh chung với giai cấp tư sản mỗi khi giai cấp này hành động cách mạng chống chế độ quân chủ chuyên chế, chống chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và giai cấp tiểu tư sản phản động”
b. Vai trò của đảng chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa:
* Vai trò tích cực của Đảng cầm quyền:
– Ở các nước tư bản chủ nghĩa, vai trò của đảng chính trị thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử giành quyền lực nhà nước. Đó là tổ chức bầu cử, đảm bảo thay đổi chính quyền bằng cách hòa bình, hợp pháp, hợp hiến.
– Sau khi đắc cử, Đảng cầm quyền đề ra đường lối, định hướng phát triển kinh tế – xã hội thông qua cương lĩnh chính trị, đào tạo, bố trí tuyển lựa thành viên của đảng vào các cương vị chủ chốt của chính quyền, chuẩn bị các chính sách, chiến lược hoạt động của nhà nước.
* Vai trò tích cực của Đảng không cầm quyền:
– Đảng không cầm quyền kiềm chế, đối trọng, giám sát đảng cầm quyền, là “cái van” điều chỉnh hoạt động của đảng cầm quyền.
– Đảng không cầm quyền tập hợp giai cấp, tổ chức giai cấp, tập hợp lực lượng để đấu tranh chính trị nhằm giành quyền lực nhà nước về tay mình.
=> Đảng không cầm quyền tăng cường tính tích cực cho công dân.
* Ảnh hưởng tiêu cực:
– Mặt tiêu cực của đảng chính trị bộc lộ rõ khi nó chia rẽ nhân dân, tách nhân dân ra khỏi chính trị.
– Để đạt được mục đích, đảng chính trị hành động kể cả những thủ đoạn, kích thích sự thèm khát quyền lực chính tri và tạo thêm những điều kiện cho tham nhũng, tước bỏ quyền dân chủ của nhân dân.
c. Vai trò của đảng chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa:
* Vai trò tích cực:
– Trong hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo, thực hiện quyền thống trị về chính trị của giai cấp công nhân để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
– Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản chịu trách nhiệm hoàn toàn trước vận mệnh phát triển của dân tộc, lãnh đạo mọi mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
– Sự lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản trong điều kiện Đảng cầm quyền thực chất là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế. Bởi vậy, quyền lực của Đảng không mâu thuẫn và không thay thế quyền lực nhà nước, tập trung vào việc lãnh đạo xây dựng nhà nước để quản lý kinh tế – lĩnh vực suy cho cùng quyết định đến sự phát triển của xã hôi, quyết định vai trò lãnh đạo của Đảng.
=> Như vậy, Đảng Cộng sản có vai trò tích cực, gần như không có ảnh hưởng tiêu cực bởi mục tiêu cuối cùng là vì nhân dân, đưa xã hội đi lên cộng sản chủ nghĩa, không còn giai cấp, không còn bóc lột, con người sống trong hòa bình, tình yêu.
* Ảnh hưởng tiêu cực:
Tuy nhiên, trong những tình hình cụ thể, Đảng Cộng sản cũng có những biểu hiện tiêu cực trong lãnh đạo xã hội khi nội bộ Đảng tha hóa, biến chất, xã rời lợi ích giai cấp, mất sức chiến đấu. Do đó, cần phải làm trong sạch và chỉnh đống Đảng.
Câu 10: Thủ lĩnh chính trị là gì? Trình bày những phẩm chất và vai trò của thủ lĩnh chính trị?
Trả lời:
1. Thủ lĩnh chính trị là gì?
Thủ lĩnh chính trị là người đứng đầu một tổ chức chính trị. Đó là nhân vật xuất sắc trong lĩnh vực hoạt động chính trị, xuất hiện trong những điều kiện lịch sử nhất định, có sự giác ngộ lợi ích, mục tiêu, ý tưởng giai cấp, có khả năng nắm bát và sử dụng quy luật, có năng lực tổ chức và tập hợp quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ chính trị do lịch sử đặt ra.
2. Những phẩm chất của thủ lĩnh chính trị:
Là thủ lĩnh chính trị thì dù ở bất cứ chế độ nào cũng phải có những phẩm chất nhất định: có trí tuệ, có năng lực đạt tới mục tiêu chính trị đề ra, có khả năng cai trị… Tuy nhiên, ở mỗi chế độ chính trị, mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, người thủ lĩnh chính trị cũng có những phẩm chất riêng. Phẩm chất của người thủ lĩnh chính trị trong xã hội chiếm hữu nô lệ khác với thủ lĩnh chính trị trong chế độ phong kiến và cũng không giống với thủ lĩnh chính trị của giai cấp tư sản. Và tất nhiên, thủ lĩnh chính trị của giai cấp vô sản khác về chất so với tất cả các loại thủ lĩnh trong xã hội dựa trên chế độ áp bức bóc lột. Bởi vậy, khi xem xét về phẩm chất của người thủ lĩnh chính trị cần có quan điểm khách quan, toàn diện, dựa vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể và đặc biệt phải có quan điểm giai cấp rõ ràng vì chính trị là đấu tranh cho lợi ích giai cấp, người thủ lĩnh chính trị luôn là người thể hiện tập trung, tiêu biểu cho lợi ích giai cấp.
Có thể khái quát về phẩm chất của người lãnh đạo – thủ lĩnh chính trị thành 5 nhóm sau:
– Về trình độ hiểu biết: Nhất thiết đó phải là người thông minh, hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực, có tư duy khoa học, nắm vững được quy luật phát triển theo hướng vận động của quá trình chính trị, có khả năng dự đoán được tình hình, làm chủ được khoa học và công nghệ lãnh đạo, quản lý.
– Về phẩm chất chính trị: là người giác ngộ lợi ích giai cấp, đại diện tiêu biểu cho lợi ích giai cấp, trung thành với mục tiêu lý tưởng đã chọn, dũng cảm đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước những diễn biến phức tạp của lịch sử.
– Về năng lực tổ chức: là người có khả năng về công tác tổ chức, nghĩa là biết đề ra mục tiêu đúng, phân công nhiệm vụ đúng chức năng cho cấp dưới và cho từng người, biết tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, có khả năng động viên, cổ vũ, khích lệ mọi người hoạt động, có khả năng kiểm soát, kiểm tra công việc.
– Về đạo đức, tác phong: là người có tính trung thực, công bằng không tham lam, vụ lợi, cởi mở và cương quyết, có lối sống giản dị, có khả năng giao tiếp và tạo mối quan hệ tốt với mọi người, biết lắng nghe ý kiến của người khác, có lòng tin vào chính bản thân mình, có khả năng giữ gìn và bảo vệ ý kiến của mình, có chính kiến và bảo vệ chính kiến của mình, có lòng say mê công việc và lòng tin vào cấp dưới.
– Về khả năng làm việc: có sức khỏe tốt, khả năng làm việc với cường độ cao, có khả năng giải quyết mọi vấn đề một cách sáng tạo, những lúc phong trào lâm vào khó khăn, thủ lĩnh có thể đưa ra được những quyết định sáng suốt, nhạy cảm và năng động, biết cảm nhận cái mới và đấu tranh vì cái mới.
3. Vai trò của thủ lĩnh chính trị:
Là những nhân vật xuất sắc trong lĩnh vực chính trị, khác với những con người chính trị khác, thủ lĩnh chính trị có vai trò to lớn đối với tiến trình phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, tuy thuộc vào những điều kiện lịch sử, vị thế giai cấp hay tầng lớp xuất thân mà vai trò của thủ lĩnh chính trị có thể là tích cực hay tiêu cực.
a. Vai trò tích cực:
Vai trò tích cực của thủ lĩnh chính trị chỉ xuất hiện khi giai cấp sản sinh ra thủ lĩnh tiến bộ, hoạt động của thủ lĩnh phù hợp với quy luật khách quan, với tiến trình phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của quần chúng. Đó chính là lãnh tụ của quần chúng. Chỉ như vậy, họ mới tập hợp, động viên được quần chúng và được quần chúng ủng hộ. Sức mạnh của thủ lĩnh là sức mạnh của quần chúng.
Vai trò tích cực của thủ lĩnh được thể hiện ở những điểm sau:
– Do nhận thức đúng yêu cầu phát triển của xã hội và khả năng hiện có, thủ lĩnh có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực mà họ chính là linh hồn của hệ thống đó, hướng hệ thống quyền lực phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội, giai cấp, góp phần tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
– Cùng đội tiên phong của giai cấp, thủ lĩnh chính trị lôi kéo, tập hợp quần chúng, thuyết phục, giáo dục và phát huy sức mạnh của quần chúng trong đấu tranh chính trị nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, phù hợp với nhu cầu xã hội và lợi ích giai cấp.
– Thủ lĩnh chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích của giai cấp, của dân tộc, do có khả năng nhìn xa trông rộng lãnh đạo không chỉ có khả năng tổ chức, tập hợp lực lượng, lãnh đạo phong trào mà còn có khả năng đưa phong trào vượt qua những khúc quanh co của lịch sử, thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị đã đề ra.
– Thủ lĩnh chính trị có vai trò thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, mang lại hiệu quả cao cho phong trào cách mạng, cho hoạt động của quần chúng.
b. Ảnh hưởng tiêu cực:
Thông thường, ảnh hưởng tiêu cực của thủ lĩnh chính trị là do vị thế của giai cấp sản sinh ra thủ lĩnh chính trị quyết định. Tuy nhiên, ở giai cấp tiến bộ cũng có trường hợp, do người lãnh đạo thiếu tài, kém đức, hoặc có tài nhưng kém đức, cá nhân chủ nghĩa, chuyên quyền độc đoán, nên không có khả năng nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo quy luật khách quan, hoặc nhận thức đúng mà hoạt động trái với quy luật khách quan, trái với lợi ích của quần chúng, đi ngược với xu thế của thời đại. Trong trường hợp này, vai trò của người thủ lĩnh kìm hãm sự phát triển của lịch sử.
Ảnh hưởng tiêu cực của thủ lĩnh chính trị thể hiện ở những điểm sau:
– Do thiếu tài, kém đức nên không có khả năng lãnh đạo phong trào, không biết “chớp thời cơ, vượt thử thách” để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đặt ra, đặc biệt, trước những bước ngoặt của lịch sử thường tỏ ra bối rối, dao động, thậm chí trở nên phản động, lái phong trào đi ngược lại lợi ích của quần chúng.
– Người thủ lĩnh không xuất phát từ lợi ích chung mà vì quyền lợi riêng, động cơ không trong sáng nên thường gây bè phái chia rẽ, mất đoàn kết trong hệ thống tổ chức quyền lực, làm suy giảm vai trò, sức mạnh của tổ chức, hạn chế, ngăn cản khả năng của mỗi cá nhân, làm giảm hiệu quả giải quyết những nhiệm vụ, mục tiêu của chính trị đề ra.
– Do phong cách làm việc độc đoán, chuyên quyền hoặc do năng lực hạn chế của người thủ lĩnh mà nguyên tắc dân chủ trong tổ chức và hoạt động bị tước bỏ, nhân quyền thường bị vi phạm, phong trào cách mạng thiếu động lực và sinh khí để phát triển.
– Trong điều kiện thế giới biến động đầy phức tạp như hiện nay, quyết định sai trái của “những cái đầu nóng” của các vị thủ lĩnh khiến nhân loại phải trả giá đắt, đôi khi không thể lường trước được.
Câu 11: Trình bày bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế? Vì sao Đảng ta chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Kinh tế là một phạm trù khoa học, cần được hiểu đầy đủ với những nội dung:
– Kinh tế là tổng hoà các quan hệ dựa trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội nhất định. Nền tảng kinh tế được tạo bởi các quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ phân phối.
– Kinh tế là cái, suy cho cùng, quyết định mọi biến đổi xã hội, mọi đảo lộn chính trị. Mọi biến đổi xã hội, đảo lộn chính trị là kết quả tất yếu của sự phát triển kinh tế.
– Kinh tếm trong mỗi chế độ xã hội, là nền kinh tế quốc dân, với đầy đủ nội dung của nó.
=> Thực chất của kinh tế là lợi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế và sự phát triển của lực lượng sản xuất gắn liền với mỗi thành viên tham gia các quá trình sản xuất và tái sản xuất, cũng như lợi ích kinh tế của mỗi tập đoàn, giai cấp và các nhóm xã hội.
Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là quan hệ cơ bản nhất của đời sống xã hội – nói một cách khái quát, là quan hệ giữa quyền lực chính trị (tập trung ở quyền lực nhà nước) đối với kinh tế với tư cách là cơ sở nền tảng của quyền lực chính trị và của toàn xã hội. Nói một cách thực chất hơn, ngắn hơn là quan hệ giữa quyền lực nhà nước với kinh tế, hướng tới sự phát triển kinh tế – xã hội, nhằm bảo vệ chế độ chính trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
1. Bản chất mối quan hệ chính trị với kinh tế
a. Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
– Xét trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, theo Lênin, chính trị là một hienhf thức biểu hiện của kinh tế, nhưng là hình thức biểu hiện tập trung nhất, cô đọng nhất. Nội dung quyết định hình thức, nên kinh tế quyết định chính trị. Nghĩa là, kinh tế làm nảy sinh chính trị cả với tư các là một chế độ bao gồm: thể chế chính trị, công cụ, phương tiện để thỏa mãn nhu cầu, mục đích chính trị. Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định về kinh tế có một trình độ phát triển nhất định về chính trị. Cơ sở kinh tế như thế nào thì cơ cấu thể chế chính trị thích ứng như thế ấy.
– Chính trị không đứng ngoài mục đích nào khác là hướng vào sự phát triển của kinh tế. Kinh tế là gốc của chính trị, là thước đo tính hợp lý của chính trị. Kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ và ngược lại, kinh tế khủng hoảng, chính trị không hợp lý cũng khủng hoảng theo. Do đó, ở thời nào cũng vậy, chính trị nếu không hướng vào giải quyết thỏa đáng các quan hệ lợi ích nhằm phát triển kinh tế, thì chính trị sẽ không có cơ sở tồn tại, sớm muộn cũng phải thay thế bởi chính trị mới tiến bộ hơn, phù hợp hơn với kinh tế. Chính trị là xây dựng nhà nước về mặt kinh tế.
– Kinh tế xét đến cùng là nhân tố quyết định toàn bộ lịch sử vận động của đời sống chính trị, từ lịch sử hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp đến lịch sử các chính đảng và hoạt động của các chính đảng, lịch sử hình thành các thiết chế quyền lực nhà nước. Nhân tố kinh tế có tính quyết định nhất tác động đến đời sống chính trị là hệ thống các quan hệ sở hữu. Đến lượt nó, hệ thống các quan hệ sản xuất của một xã hội khi đã thay đổi về căn bản sẽ dẫn đến thay đổi căn bản chế độ chính trị, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Các quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp chỉ là sự phản ánh các quan hệ lợi ích kinh tế, những mâu thuẫn trong các quan hệ kinh tế. Giai cấp nào nắm kinh tế thì giai cấp đó nắm quyền lực chính trị, chi phối đời sống xã hội.
– Chính trị là sự phản ánh, sự biểu hiện tập trung của kinh tế, đòi hỏi chính trị và hệ thống chính trị phải mang trong nó những quy định kinh tế khách quan. Nghĩa là trong cấu trúc, các quan hệ và phương thức hoạt động chính trị phải phù hợp với những quy định khách quan của kinh tế. Chính trị trong khi phản ánh tính tất yếu của các quy luật kinh tế không phải là bản sao thụ động của kinh tế, mà thông qua lăng kính tư duy của hệ thống chính trị. Chính trị phải mang trong nó tính quy luật kinh tế khách quan, nghĩa là, chính trị phải phản ánh trong cấu trúc của chính bản thân nó.
– Trong các đường lối, chính sách của đảng cầm quyền tác động vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội thì tính đúng đắn của đường lối, chính sách kinh tế giữ vai trò quyết định. Cũng trên cơ sở đó, Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu sự nghiệp đối mới từ tư duy lý luận về kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
b. Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế:
– Thắng lợi của cách mạng chính trị là tiền đề, là điều kiện tiên quyết cho những biến đổi về chất và phát triển kinh tế diễn ra tiếp theo. Điều này, hoàn toàn rõ ràng đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động muốn giải phóng mình khỏi sự bóc lột và tha hóa bởi quan hệ tư sản và tiền tư sản, trước hết phải giành được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Chỉ sau đó họ mới có tiền đề để cải tạo quan hệ kinh tế, biến mình trở thành chủ sở hữu các tư liệu sản xuất cơ bản. Sẽ không thể có sự biến đổi và phát triển nào của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nếu như giai cấp vô sản chưa giành được chính quyền nhà nước – điều kiện tiên quyết để thiết lập nền tảng kinh tế mới dựa trên cơ sở của chế độ công hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu.
– Với tính độc lập tương đối, chính trị có tác động trở lại đối với kinh tế theo những hướng khác nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm. Tác động ngược lại của quyền lưc nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại: Nó có thể tác động cùng chiều hướng – khi ấy sự phát triển diễn ra nhanh hơn, nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế – khi ấy thì hiện nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một thời gian nhất định hoặc là nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng khác.
Bởi vậy, muốn để kinh tế phát triển đồng thuận với sự tác động của chính trị vào kinh tế, đòi hỏi phải quan tâm tới cả ba phương diện: đường lối chính sách kinh tế, thể chế kinh tế, và chủ thể kinh tế.
– Hệ thống các quan hệ kinh tế cũng như những quan hệ kinh tế cơ bản cho chính trị thiết lập ra là cơ sở cho sự tồn tại, ổn định, bền vững của chính trị. Do đó, chính trị trước hết phải bảo vệ những thành quả kinh tế mà chính trị đã đạt được nhằm duy trì địa vị của giai cấp thống trị. Thông qua tổ chức, chức năng và những năng lực vật chất, tinh thần, chính trị nói chung và đặc biệt là nhà nước nói riêng, có thể nhận thức vượt trước so với kinh tế, có thể tiên đoán được tương lai vận động của đời sống kinh tế. Đồng thời, chính trị có thể tạo ra những nhân tố, những hình thức, những điều kiện tác động vào kinh tế, định hướng phát triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định.
– Chính trị đóng vai trò định hướng và trường chính trị – xã hội ổn định cho phát triển kinh tế. Sự định hướng chính trị thể hiện trên tất cả các khâu của quá trình phát triển kinh tế: xây dựng, thể chế hóa đường lối phát triển kinh tế, định hướng quá trình tổ chức định hướng xã hội cho phát triển kinh tế để không có sự hy sinh cái này cho cái kia, và để lợi ích của giai cấp thống trị không bị vi phạm. Hơn nữa, sự ổn định chính trị là điều kiện thuận lợi cho mọi hoạt động đầu tư, kinh doanh, phát triển kinh tế.
– Chính trị không chỉ lãnh đạo kinh tế mà còn tham gia kiểm soát chặt chẽ những vấn đề cơ bản, then chốt của kinh tế: ngân sách, vốn, hoạt động tài chính tiền tệ, chính sách kinh tế, đối ngoại… Sự lãnh đạo của chính trị đối với kinh tế không chỉ mang tính định hướng, tạo sự ổn định cho phát triển kinh tế mà hơn nữa chính trị còn tham gia quản lý nền kinh tế, điều chỉnh cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển.
=> Quan hệ giữa chính trị và kinh tế là mối quan hệ cơ bản, nhạy cảm và phức tạp trong các quan hệ xã hội. Để giải quyết tốt mối quan hệ này, cần phải tránh cả hai khuynh hướng sai lầm: tuyệt đối hóa kinh tế và tuyệt đối hóa chính trị. Đi theo hướng thứ nhất, kinh tế sẽ phát triển tự phát, vô chính phủ. Đi theo hướng thứ hai, nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng áp đặt, không theo quy luật khách quan. Nhưng nếu đồng nhất chính trị với kinh tế thì sẽ làm chính trị trở nên cứng nhắc, giáo điều.
Thực chất của sự tác động của chính trị đối với kinh tế là tạo môi trường xã hội ổn định, giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và định hướng phát triển. Sự phát triển xã hội còn đòi hỏi phải có sự ưu tiên của chính trị đối với kinh tế, phải có giải pháp chính trị để phát triển kinh tế. Kinh tế càng phát triển thì chính trị càng phải mở rộng, đổi mới, tạo tiền đề tiên quyết cho kinh tế phát triển.
2. Vì sao Đảng ta chủ trương gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội?
Câu 12: Văn hóa chính trị là gì? Phân tích cấu trúc của văn hóa chính trị? Trình bày cơ sở hình thành văn hóa chính trị ở Việt Nam và phương thức giáo dục văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ và nhân dân?
Trả lời:
Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội, trình độ phát triển năng lực và khả năng sáng tạo của con người biểu hiện trong các phương thức tổ chức đời sống xã hội và hoạt động của con người cũng như toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên trong tiến trình lịch sử vì lẽ sinh tồn và mục đích của cuộc sống.
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Văn hóa chính trị là gì?
Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc trưng của văn hóa của loài người trong xã hội có giai cấp, là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ chức quyền lực theo một chuẩn mực giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội.
2. Cấu trúc của văn hóa chính trị?
a. Văn hóa chính trị với tư cách là chủ thể chính trị:
Với tư cách là chủ thể, phán ánh trình độ của con người về chính trị, văn hóa chính tị được tạo thành bởi kết quả của sự thống nhất và tác động qua lại của văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức (cộng đồng)
* Văn hóa chính trị của cá nhân:
– Cá nhân là phạm trù chỉ một con người, một cá thể người, một nhân cách. Sự phát triển đầy đủ và toàn diện văn hóa chính trị cá nhân phản ánh trình độ chín muồi của chế độ dân chủ. Văn hóa chính trị cá nhân được thể hiện trên ba mặt:
+ Trình độ hiểu biết về chính trị
+ Khả năng, năng lực của cá nhân tham gia vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị.
+ Mức độ hoàn thiện nhân cách
– Văn hóa chính trị cá nhân chịu sự chi phố bởi các tư tưởng xã hội, động cơ chính trị và lợi ích giai cấp, phụ thuộc vào trình độ dân chủ xã hội và truyển thống của dân tộc, đồng thời cũng phụ thuộc vào toàn bộ kinh nghiệm sống, kết quả đào tạo, tự đào tạo, sự tự ý thức, tự phát triển. Văn hóa chính trị cá nhân thường được bộc lộ qua văn hóa ứng xử, giao tiếp, tranh luận, bởi vì giao tiếp, ứng xử, tranh luận không chỉ thể hiện thái độ thuẩn túy mà còn là biểu hiện của lòng trung thành, trình độ giác ngộ chính trị, là năng lực trí tuệ, đạo đức và tác phong, là động cơ chính trị hướng về một lợi ích chính trị, một mục tiêu lý tưởng nhất quán cơ bản và lâu dài.
– Văn hóa chính trị cá nhân không chỉ thể hiện qua quan hệ giao tiếp, ứng xử, mà còn bộc lộ đầy đủ ở năng lực, khả năng hoạt động sáng tạo, đặc biệt trong việc tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực chính trị. Con đường đi tới hoạt động sáng tạo bắt đầu từ tri thức, sự hiểu biết về chính trị – cơ sở để hoạt hành động đúng. Để hình thành văn hóa chính trị cá nhân, phải thường xuyên trau dồi tư duy khoa học trên cơ sở hoàn chỉnh về kiến thức, phải tích lũy kinh nghiệm, nhất là kinh nghiệm sống trực tiếp trong hoạt động chính trị, phải học tập văn hóa ứng xử khoan dung…
– Ở Việt Nam, văn hóa chính trị cá nhân, đặc biệt là đối với những nhà lãnh đạo chính trị là sự thực hành văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với phương châm: trau dồi đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân, nghiêm khắc với mình, khoan dung độ lượng với người khác.
* Văn hóa chính trị của tổ chức:
Văn hóa chính trị của các cá nhân chỉ thực sự thể hiện và phát huy trong quan hệ với văn hóa chính trị của một tổ chức xác định, bởi con người bất cứ ở đâu và bất cứ bao giờ cũng không tồn tại ở một bình diện, một chiều mà ở nhiều bình diện, nhiều chiều, và luôn đặt vào những quan hệ cụ khác nhau, vào vị trí khác nhau. Con người, theo quan niệm của Hồ Chí Minh: “nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”
Văn hóa chính trị của một tổ chức phụ thuộc vào văn hóa của từng cá nhân, vào văn hóa của người thủ lĩnh, vào trình độ dân trí nói chung, vào trình độ tổ chức của tổ chức và suy đến cùng còn tùy thuộc vào bản chất của chế độ chính trị, trình độ chín muồi của chế độ dân chủ.
Đối với người thủ lĩnh chính trị, văn hóa chính trị của họ lại tùy thuộc vào trình độ trí tuệ (tài), tâm trong sáng (đạo đức), sự tự giác mộ mục tiêu lý tưởng, khả năng thu phục, tập hợp, tổ chức mọi người vào công việc chung, tùy thuộc vào kinh nghiệm thực tiễn, sự nếm trải trong thực tiễn và sự công tâm của họ.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa người đứng đầu phải hội đủ những phẩm chất: Trung với nước, hiếu với dân, yêu thương con người, sống có tình nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng.
Trình độ tổ chức thể hiện ở nguyên tắc tổ chức, ở cơ cấu tổ chức, đặc biệt ở hiệu lực, hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Bản chất của chế độ xã hội quy định trình độ văn hóa của tổ chức, cộng đồng. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, xã hội dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, lấy việc bóc lột giá trị thặng dư làm phương thức tồn tại, dân chủ chỉ là hình thức. Điều đó quy định trình độ hạn chế của văn hóa chính trị cộng đồng. Trái lại, trong chủ nghĩa xã hội, xã hội dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, xã hội lấy việc thủ tiêu, bóc lột, bất công, bất bình đẳng làm cơ sở tồn tại, dân chủ xã hội được thực hiện trong thực tế, do đó, văn hóa chính trị của mỗi tổ chức xã hội có môi trường nảy nở, phát huy. Sự tác động qua lại thuận chiều giữa văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức, cộng đồng là nét đặc sắc của văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa.
b. Văn hóa chính trị với tư cách là hệ giá trị
Do con người sáng tạo nên, tiếp thu và lựa chọn, biến thành nhu cầu, phương tiện, công cụ trong hoạt động thực tiễn, trong tổ chức quyền lực nhằm đạt mục đích chính trị, văn hóa chính trị là kết quả tổng hòa của các giá trị sau:
– Tri thức, sự hiểu biết, giác ngộ khoa học về chính trị:
Tri thức, sự hiểu biết về chính trị là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức khoa học (lý luận) và tri thức kinh nghiệm chính trị. Tri khoa học càng đạt tới tính khách quan bao nhiêu càng có vai trò to lớn mở đường cho những hành động đúng bấy nhiêu. Tri thức kinh nghiệm gồm những tri thức kinh nghiệm thực tiễn trực tiếp và truyền thống sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn tri thức lý luận, khắc phục những hành động chủ quan, duy ý chí vủa các chủ thể chính trị.
Trên cơ sở những hiểu biết đúng đắn, khoa học về chính trị, các chủ thể chính trị có thể giác ngộ về lợi ích, mục tiêu chính, về động cơ, thái độ chính trị, từ đó tự giác hơn trong hành động thực tiễn.
– Nhu cầu, thói quen, trình độ nhận định và đánh giá những hiện tượng, những quá trình chính trị của các chủ thể chính trị.
Trên cơ sở những hiểu biết về chính trị, truyền thống mỗi dân tộc, trình độ hoàn thiện và phát triển các thể chế chính trị hình thành ổn định, đồng thời khả năng nhận định, đánh giá các hiện tượng, các quá trình chính trị của họ từng bước được xác lập làm cơ sở cho những hoạt động của những cá nhân phù hơp với những chuẩn mực và lợi ích cộng đồng, nâng cao tinh thần và tính kiên quyết đấu tranh, bảo vệ hoặc phê phán những hiện tượng, sự kiện trong đời sống xã hội theo quan điểm, lập trường chính trị nhất định. Theo Lênin, một lập trường chính trị đúng đắn có nghĩa là:
+ Nhân danh tổ chức mà nêu lên một nhận định hẳn hoi về tình hình hiện thời và về sách lược, đưa ra được một loạt nghị quyết.
+ Đưa ra được một khẩu hiệu chiến đấu cho tình hình hiện nay.
+ Đem ra hai điểm nói trên (nghị quyết, khẩu hiệu) gắn với hành động của quần chúng vô sản và của đội tiên phong giác ngộ của họ.
– Các truyền thống chính trị:
Là những giá trị do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, văn hóa chính trị, cũng như văn hóa nói chung, ở trong một giai đoạn lịch sử nhất định là sự kế thừa và phát triển những giá trị chính trị truyền thống trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các giá trị văn hóa chính trị truyền thống không chỉ là những “chất liệu” tạo nên bản sắc văn hóa chính trị. Việt Nam từ ngàn đời xưa, với lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân nghĩa chính là nét đặc sắc trong văn hóa chính trị truyền thống. Trong thời đại mới, văn hóa chính trị nhân nghĩa không chỉ là yên dân, trừ baok, mà hơn thế nữa, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân nghĩa tức là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và góp phần vào sự nghiệp hòa bình trên thế giới.
– Những chuẩn mực, phương tiện, phương thức tổ chức và hoạt động của quyền lực:
Những giá trị chính trị được đúc kết thành những chuẩn mực chính trị, được xã hội thừa nhận sẽ có ý nghĩa trong việc định hướng, điều chỉnh hành vi cho các chủ thể chính trị trong cuộc đấu tranh giành, giữ, và thực thi quyền lực chính trị. Các chuẩn mực chính trị một khi đã được xã hội thừa nhận, nghĩa là được thể chế hóa thành kết cấu xã hội, thành phương thức hoạt động của các chủ thể chính trị, trong đó, hình thức tổ chức quyền lực, tổ chức nhà nước, cơ chế vận hành của nó thích ứng với yêu cầu chính trị thực tiễn là nhân tố quan trọng cấu thành văn hóa chính trị trong xã hội tương ứng.
Ngoài ra, các phương tiện phục vụ cho hoạt động, điều chỉnh các quan hệ chính trị, những giá trị vật chất của văn hóa chính trị không chỉ là yếu tố cấu thành văn hóa chính trị mà hơn thế nữa làm cho việc tổ chức quyền lực, mà cơ bản nhất là quyền lực nhà nước, có hiệu quả nhất trong việc thực thi quyền lực và bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ thể quyền lực.
– Trình độ hoàn thiện của thể chế chính trị
Sự hoàn thiện của thể chế chính trị trước hết biểu hiện sức mạnh, tính hiệu lực của thiết chế và pháp chế, giá trị và sức mạnh của truyền thống, tính pháp lý, tính phổ biến của các chuẩn mực xã hội trong việc điều chỉnh những hành vi, quan hệ xã hội – chính trị phù hợp với mục tiêu chính trị. Sau nữa, sự hoàn thiện của thể chế chính trị biểu hiện sự kiện toàn và sức mạnh của hệ thống tổ chức quyền lực trong tổ chức xã hội, trong phối hợp hành động, trong việc khơi dậy và nhân lên sức mạnh của truyền thống và hiện đại, sức mạnh của giai cấp, dân tộc, nhân loại trong việc hiện thực hóa mục tiêu chính trị.
3. Trình bày cơ sở hình thành văn hóa chính trị ở Việt Nam?
a. Cơ sở văn hóa chính trị truyền thống:
Việt Nam là một nước văn hiến. Văn hóa chính trị Việt Nam là toàn bộ những thái độ, lòng tin, chủ nghĩa yêu nước, tình cảm của con người Việt Nam với tư tưởng cốt lõi là “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Nó là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh ngoan cường dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả của giao lưu và tiếp thu của nhiều nền văn minh thế giới.
Văn hóa chính trị Việt Nam hình thành từ khi nhà nước sơ khai đầu tiên – nhà nước Văn Lang, dưới thời đại các vua Hùng ra đời. Tư tưởng giữ vững, bảo vệ nền độc lập dân tộc gắn liền với giữ nước, là vấn đề chính trị lớn nhất, thường xuyên đặt ra trước tất cả các nhà nước Việt Nam trong lịch sử.
Có thể khái quát những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam:
– Nêu cao tinh thần dân tộc và truyền thống yêu nước, động viên sức mạnh toàn dân vì độc lập tự do.
– Đề cao vai trò nhân dân, dựa vào dân để giữ nước.
– Thể hiện tinh thần nhân bản sâu sắc. Trọng nhân nghĩa, yêu thương con người bị áp bức, bóc lột, yêu hòa bình, lên án bất công, tàn bạo, phi nhân tính, chống chiến tranh xâm lược và nô dịch dân tộc.
– Đề cao trí tuệ, trọng dụng nhân tài.
– Nêu cao pháp luật để trị nước, phát huy tinh thần dân chủ trong tổ chức xã hội và bảo tồn văn hóa dân tộc…
Những hạn chế:
– Tính vô chính phủ của người tiểu nông khá rõ.
– Chế độ chuyên chế đã sản sinh ra tất cả những thiết chế, lễ nghi… rườm rà, phức tạp và bộ máy quan liêu. Bộ máy đó không trực tiếp quản lý mà nặng về bóc lột, áp bức.
– Văn hóa chính thống thường là độc quyền của vua, dân chỉ biết lắng nghe và cam chịu hơn là chủ động sáng tạo.
b. Những cơ sở hình thành văn hóa chính trị Việt Nam thời hiện đại:
Văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại bắt đầu được hình thành từ sau khi thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị, Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, nhà nước kiểu mới ra đời.
– Cơ sở kinh tế của văn hóa chính trị:
Xét về bản chất nền văn hóa chính trị hiện đại phải dựa trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đối với nước ta hiện nay, với sự thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cũng có nghĩa là thừa nhận tính đa dạng của các hình thức sở hữu, song với việc khẳng định vị trí chủ đạo của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu là đảm bảo định hướng xã hội cho sự phát triển kinh tế, đồng thời cũng là bảo đảm về mặt kinh tế cho việc hình thành và phát triển văn hóa chính trị.
– Cơ sở chính trị của văn hóa chính trị:
Hệ thống chính trị mà trụ cột của nó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân là cơ sở chính trị cho nền văn hóa chính trị hình thành và phát triển.
– Cơ sở xã hội của văn hóa chính trị:
Do việc thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nên trong xã hội tất yếu còn tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội. Trên cơ sở củng cố khối liên minh giai cấp giữa các giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng để tạo ra khả năng khách quan, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, hình thành quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc từng bước khắc phục sự bất bình đẳng, sự bất công, cùng với nền giáo dục mới hướng vào mục đích toàn xã hội mà trực tiếp là nâng cao dân chủ, là cơ sở xã hội cho việc hình thành và phát triển văn hóa chính trị.
– Cơ sở tư tưởng của văn hóa chính trị:
Chân lý khoa học, bản chất nhân văn và nhân đạo của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với những giá trị văn hóa truyền thống chính là cơ sở khoa học cho những thái độ Mácxít đối với việc nhận thức và phát triển xã hội. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tinh thần của xã hội, cơ sở tư tưởng của văn hóa chính trị.
Tải xuống đề cương môn Chính trị học
Các bạn vui lòng bấm vào link bên dưới để tải xuống bộ đề cương: